Giá trị tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và việc vận dụng ở nước ta trong tình hình hiện nay
Tóm tắt
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại
cho chúng ta giá trị tư tưởng sâu sắc về ngoại giao. Ngoại giao theo phương pháp,
phong cách Hồ Chí Minh là thêm bạn, bớt thù, mềm dẻo nhưng kiên quyết, chân
thành mà vẫn giữ vững lập trường,“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm
công”, yêu chuộng hòa bình, đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của
nhân loại. Trong tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp hiện nay, chúng ta
cần đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh để
góp phần bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, giữ vững môi
trường hòa bình và ổn định để phát triển đất nước.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và việc vận dụng ở nước ta trong tình hình hiện nay
c để vƣợt qua khó khăn, thách thức trở thành vấn đề cấp |434 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) thiết của tất cả các quốc gia dân tộc, đặc biệt đối với các nƣớc nhỏ, kinh tế còn khó khăn, khoa học - công nghệ còn lạc hậu nhƣ Việt Nam. Trƣớc tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn biến hết sức phức tạp, nhiệm vụ đối ngoại đang gánh trọng trách hết sức nặng nề trong việc đƣa Việt Nam hội nhập thành công với thế giới, giúp đất nƣớc vƣợt qua khó khăn, giữ vững độc lập và chủ quyền quốc gia. Do đó, việc học tập, nghiên cứu thấu đáo, vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, trong đó có tƣ tƣởng ngoại giao là vấn đề rất quan trọng. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991) khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng” 3; tr.127 là quyết định đúng đắn, trở thành động lực để chúng ta nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ tƣ tƣởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng, trong văn kiện đã khẳng định việc học tập, nghiên cứu tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hết sức quan trọng, cấp thiết trong việc xây dựng, thực hiện đƣờng lối, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nƣớc ta trong sự nghiệp xây dựng XHCN và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở đó, Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII (2016) trong văn kiện khẳng định quyết tâm “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” 4; tr.79 . Có thể khẳng định, trong thời gian qua, chúng ta đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc, toàn diện tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh, từ đó góp phần tham mƣu, định hƣớng chiến lƣợc, sách lƣợc ngoại giao của Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, tình hình thế giới và trong nƣớc luôn có những tiến triển không ngừng, thậm chí có những vấn đề diễn ra hết sức nhanh chóng, do đó việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh, vận dụng linh hoạt là vô cùng cần thiết trong tình hình hiện nay. Thứ nhất, để hoạt động đối ngoại phát huy hiệu quả tốt, việc phát huy nội lực, tinh thần và sức mạnh của dân tộc trở thành yếu tố quan trọng quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” 1; tr.147 và muốn ngƣời giúp ta, trƣớc hết mình phải tự giúp lấy mình. Điều đó khẳng định, thực lực chính là cơ sở quyết định sự thành công, bền vững trong hợp tác, đoàn kết quốc tế, do đó cần phải xây dựng sức mạnh nội lực lớn mạnh trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học - công nghệ, thực hiện tốt điều này, sẽ là bệ phóng giúp 435| Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại mặt trận ngoại giao có thêm sức mạnh và động lực để thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm vụ của mình. Thực tế, tình hình nƣớc ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt đƣợc qua 30 năm đổi mới, chúng ta đang đứng trƣớc nhiều khó khăn, thử thách, kinh tế có phát triển nhƣng chƣa thật sự bền vững, công nghệ lạc hậu, nhiều bất cập trong quản lý, một số tập đoàn kinh tế nhà nƣớc làm ăn kém hiệu quả, tham ô, lãnh phí gây thất thoát lớn tài sản quốc gia, nợ công gia tăng, ô nhiễm nguồn nƣớc, môi trƣờng nhiều nơi nghiêm trọng ảnh hƣởng đến sức khỏe và đời sống nhân dân. Những khó khăn này, ảnh hƣởng không nhỏ đến sức mạnh, uy lực của ngoại giao Việt Nam. Do vậy, chúng ta phải xây dựng đƣợc những chủ trƣơng, chính sách đúng đắn, phát triển mạnh kinh tế gắn với đảm bảo an sinh xã hội, mở cửa, hội nhập hợp lý tránh rơi vào tình trạng bị cô lập hoặc bị hòa tan, kiên quyết chống tham nhũng, có chính sách hợp lý để bảo vệ môi trƣờng, đặc biệt là môi trƣờng biển, xây dựng vững chắc lòng tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền, phát huy tinh thần, trí tuệ của nhân dân, quyết tâm xây dựng đất nƣớc giàu mạnh và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Tạo cơ chế hiệu quả, phối hợp nhịp nhàng giữa ngoại giao với chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hóa. Thực hiện đƣợc điều đó, chúng ta sẽ có tâm thế vững chắc khi tiến hành hội nhập sâu rộng với thế giới, “hòa nhập nhưng không hòa tan” giúp đất nƣớc tiếp tục phát triển và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc. Thứ hai, vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh trên cơ sở nghiên cứu nắm vững quy luật, đặc điểm của thời đại, có những dự đoán khoa học để hoạch định chiến lƣợc ngoại giao đúng đắn, nắm chắc thời cơ. Lãnh tụ Lênin đã khẳng định “chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ” 5; tr.174 . Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời hiểu biết sâu sắc đặc điểm của thời đại, dã tâm của chủ nghĩa đế quốc, các quy luật trong quan hệ quốc tế, giúp Hồ Chí Minh có cái nhìn toàn diện, thấu đáo về các mối quan hệ quốc tế, từ đó hoạch định đƣờng lối đối ngoại phù hợp, nắm chắc thời cơ để đem đến những thắng lợi cho dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Thực tế trong thời gian qua, bên cạnh những mặt tích cực trong hoạt động đối ngoại, vẫn tồn tại không ít những hạn chế, việc nghiên cứu, dự báo tình hình quốc tế đôi lúc còn chậm, việc tham mƣu trong hoạch định chính sách đối ngoại vẫn còn hạn chế, điều đó gây trở ngại cho chúng ta trong việc nắm bắt thời cơ, đẩy nhanh hội nhập để thu hẹp khoảng cách với các nƣớc và đôi lúc lúng túng trong giải quyết các vấn đề khó liên quan đến việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Hiện nay, để góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thiết nghĩ chúng ta |436 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) phải đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, vận dụng tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh gắn chặt với nghiên cứu, phân tích tình hình thế giới thấu đáo để có những dự báo kịp thời, tham mƣu hiệu quả cho việc xây dựng đƣờng lối đối ngoại, sách lƣợc ngoại giao phù hợp, góp phần tạo bƣớc đột phá, đẩy mạnh hội nhập quốc tế kết hợp chặt chẽ với giữ vững quốc phòng, an ninh, cảnh giác với những âm mƣu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong tình hình hiện nay. Thứ ba, trong giai đoạn một trật tự thế giới mới đang định hình, mối quan hệ quốc tế chồng chéo, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trở nên phức tạp, quan hệ giữa các quốc gia biến đổi khó lƣờng, đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là thêm bạn, bớt thù, mềm dẻo nhƣng kiên quyết, chân thành mà vẫn giữ vững lập trƣờng,“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công” yêu chuộng hòa bình, đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” 6; tr.256 . Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII đã quán triệt “nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, bình thường hóa, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” 7; tr.34-35 . Thực hiện tốt điều này, Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế. Từng bƣớc xây dựng lòng tin, nâng tầm mối quan hệ đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau và hợp tác thực chất. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc trên lĩnh vực đối ngoại, phải thẳng thắn nhìn nhận chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách, tình hình tranh chấp ở Biển Đông đang diễn biến phức tạp, Việt Nam là bên có tranh chấp ở đây, trong khi chúng ta là nƣớc nhỏ, tiềm lực kinh tế, quốc phòng còn hạn chế, đòi hỏi mặt trận ngoại giao phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt nội dung, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cần vận dụng sáng tạo phƣơng pháp “ngoại giao tâm công”, dùng nhân tâm đánh vào lòng ngƣời, vừa khơi dậy lòng tự hào của đối phƣơng, vừa sử dụng lý lẽ sắc bén nhƣng chuyển tải bằng phƣơng pháp linh hoạt, giản dị, gắn với đạo lý, lẽ phải để tấn công vào lòng ngƣời nhằm thức tỉnh lƣơng tri. Bởi thực tế, các dân tộc trên thế giới này dù màu da, văn hóa, lịch sử có khác nhau nhƣng đều có những đặc điểm chung là hƣớng thiện và có chung những giá trị nhân văn cơ bản. Qua đó, chúng ta cố gắng gác lại những bất động trong khả năng, điều kiện có thể, tìm kiếm sự tƣơng đồng, khơi dậy và tăng cƣờng sự đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nƣớc, các tổ chức yêu chuộng hòa bình đối với Việt 437| Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại Nam. Mặt khác, ngoại giao tâm công và ngoại giao văn hóa phải kết hợp hài hòa, bởi ngoại giao là diễn đàn của hoạt động văn hóa vì quyền lợi của dân tộc và văn hóa cũng là động lực của hoạt động ngoại giao, thực hiện tốt điều này, sẽ giúp chúng ta giải quyết hiệu quả các vấn đề khó trong quan hệ quốc tế đa dạng, nhiều tầng và phong phú trong tình hình hiện nay. Làm cho nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới thấy đƣợc sự chính nghĩa, yêu hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ƣớc Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS)của Việt Nam. Thể hiện tinh thần đấu tranh bền bỉ, khôn khéo, tránh khiêu khích, mắc mƣu khiêu khích hoặc suy nghĩ cực đoan dựa vào nƣớc này để đối phó với nƣớc khác, tăng cƣờng đối thoại, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tếđể sớm đạt đƣợc Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) đảm bảo sự công bằng cho các quốc gia có liên quan. Mặt khác, Việt Nam cần xây dựng lòng tin với các đối tác chiến lƣợc, Hồ Chí Minh đã khẳng định, “chỉ có lòng tin cậy lẫn nhau và sự cộng tác bình đẳng, thật thà, thì mới đi đến kết quả thân thiện giữa hai nước” 1; tr.417 , trên cơ sở đó, chúng ta cần xây dựng chiến lƣợc đối ngoại và có biện pháp thực hiện hiệu quả quyết tâm trở thành thành viên tích cực có những đóng góp quan trọng cho các tổ chức mà mình tham gia, vì hòa bình, ổn định và phát triển. Đa dạng hóa, đa phƣơng hóa quan hệ đối ngoại dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Cố gắng cân bằng mối quan hệ giữa các nƣớc lớn, đặc biệt là cân bằng mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, tích cực đẩy mạnh đoàn kết và hợp tác với các nƣớc trong khối ASEAN, tăng cƣờng mối quan hệ với các nƣớc bạn bè truyền thống (Cuba, Ấn Độ, Nga...), các nƣớc láng giềng (Trung Quốc, Lào, Campuchia). Kiềm chế, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình và tôn trọng luật pháp quốc tế để duy trì quan hệ hòa hiếu nhằm giữ vững môi trƣờng hòa bình, ổn định để phát triển đất nƣớc đúng nhƣ lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, “sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới” 8; tr.675 . KẾT LUẬN Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, khai sinh ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, để lại cho dân tộc Việt Nam di sản tƣ tƣởng quý báu, trong đó chủ nghĩa yêu nƣớc phát triển lên tầm cao mới trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, yêu nƣớc và yêu CNXH. Hồ Chí Minh chủ trƣơng phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc, chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, chủ động xây dựng lực lƣợng cách mạng để đón bắt thời cơ. Đó là |438 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) cơ sở để thực hiện hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Hồ Chí Minh cũng là “cha đẻ” của nền ngoại giao Việt Nam, nền ngoại giao dựa trên nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với CNXH tự chủ, tự lực, tự cƣờng gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế và yêu chuộng hòa bình. Phƣơng pháp, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là mềm dẻo, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công”, giản dị, dễ thuyết phục, dự báo đúng thời cơ và nhân nhƣợng có nguyên tắc. Nói về mục đích, nguyên tắc và sách lƣợc ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải giữ vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt” 9; tr.555 . Lịch sử đấu tranh giành độc lập, bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã khẳng định giá trị to lớn của tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Ngoại giao Việt Nam đã giúp nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới hiểu đƣợc tinh thần yêu chuộng hòa bình, sự chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, giúp chúng tatập hợp lực lƣợng, gắn kết sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh to lớn làm nên những thắng lợi vĩ đại. Trong tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp hiện nay, việc vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đặc biệt là “ngoại giao tâm công” để góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là vô cùng quan trọng. Thiết nghĩ, chúng ta cần phải đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh, biến tƣ tƣởng ngoại giao của Hồ Chí Minh trở thành nét văn hóa tiêu biểu gắn liền với phong cách đặc trƣng của con ngƣời Việt Nam, từ đó xây dựng nền ngoại giao nhân dân vững mạnh, làm cho thế giới hiểu đƣợc mục tiêu, bản chất tốt đẹp của con ngƣời Việt Nam. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần giúp chúng ta hội nhập sâu rộng, bền vững, xây dựng lòng tin vững chắc trong các mối quan hệ, tạo động lực cho sự vƣơn lên phát triển về kinh tế, khoa học công nghệ, đem lại cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho nhân dân và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong tình hình hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Nguyễn Dy Niên (2009), Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 439| Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Sự thật, Hà Nội. 5. Lênin (1980), Toàn tập, tập 26, Nxb Sự thật, Hà Nội. 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. |440
File đính kèm:
- gia_tri_tu_tuong_ngoai_giao_ho_chi_minh_va_viec_van_dung_o_n.pdf