Factors affect green food consumption intention of consumers in Hanoi
Green consumption has become an important academic and practical topic however
green food consumption is a quite new concept with many consumers in Hanoi. Taking the
cognitive view in studying consumer behaviors, this study theoretically developed and tested
factors that affect green food consumption intention and behavior of consumers in Hanoi, namely
Attitude towards the environment, Attitude towards green food consumption, Subjective norm of
green consumption, Perceived consumer effectiveness and belief. Our data sample of 260
consumers in Hanoi provided supports for the hypotheses. Our study results thus contribute to the
green consumption literature and the broader literature of consumer behavior. Implications and
recommendations for further research are also discussed.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Factors affect green food consumption intention of consumers in Hanoi
không có hiện tượng đa cộng tuyến (do hệ số phóng đại phương sai VIF của các nhóm nhân tố đều nhỏ hơn 2) hay tự tương quan (hệ số Durbin-Watson bằng 1,905). Khi xét giá trị Sig của từng nhóm nhân tố, có 2 nhóm nhân tố có hệ số Sig lớn hơn 0,05 là AMT và AKS. Do đó, nhóm yếu tố này không có ý nghĩa thống kê và cần phải loại ra khỏi mô H.T.B. Thoa et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 79-90 87 hình. Thực hiện hồi quy với các nhóm nhân tố còn lại thu được kết quả như Bảng 2. Như vậy, ta chấp nhận các giả thuyết H1, H2, H4 và bác bỏ các giả thuyết H3 và H5. Sau khi tiến hành chạy hồi quy để tìm sự tác động của nhân tố thông tin rõ ràng đến niềm tin và thái độ của khách hàng, kết quả thu được ở Bảng 2 và 3. Bảng 2. Kết quả phân tích hồi quy sự tác động của thông tin rõ ràng đến niềm tin Biến độc lập Beta chuẩn hóa Beta tuyệt đối Sig. ATT ,545 ,545 ,000 R2 R2 hiệu chỉnh Số lượng mẫu 0,297 0,295 246 Nguồn: Kết quả khảo sát. Giá trị Sig của mô hình và của biến ATT đều nhỏ hơn 0,05 nên mô hình hồi quy tuyến tính xây dựng và tham số hồi quy đều có ý nghĩa thống kê thực tiễn. Theo kết quả phân tích cuối cùng, R2 hiệu chỉnh bằng 0,297 có nghĩa là 29,7% sự thay đổi về niềm tin đối với thị trường thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng được giải thích bằng biến thông tin rõ ràng. Bảng 3. Kết quả phân tích hồi quy tác động của thông tin rõ ràng đến thái độ Biến độc lập Beta chuẩn hóa Beta tuyệt đối Sig. ATT ,411 ,411 ,000 R2 R2 hiệu chỉnh Số lượng mẫu 0,169 0,166 246 uNguồn: Kết quả khảo sát. Giá trị Sig của mô hình và của biến ATT đều nhỏ hơn 0,05 nên mô hình hồi quy tuyến tính xây dựng và tham số hồi quy đều có ý nghĩa thống kê thực tiễn. Theo kết quả phân tích cuối cùng, R2 hiệu chỉnh bằng 0,169 có nghĩa là 16,9% sự thay đổi về thái độ đối với thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng được giải thích bằng biến thông tin rõ ràng. Dấu của hệ số góc là dương, nên biến thông tin có tác động tích cực đến thái độ. Như vậy, ta chấp nhận 2 giả thuyết H6 và H7. Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu trước đây [4, 28], chứng tỏ việc dán nhãn và cung cấp thông tin thực phẩm hữu cơ một cách đúng, đủ và kịp thời sẽ tác động tích cực đến niềm tin và thái độ của người tiêu dùng. Thống kê mô tả cũng chỉ ra rằng chỉ có khoảng 47,15% người tham gia khảo sát cảm thấy thỏa mãn với những thông tin trên bao bì của các loại thực phẩm hữu cơ - một tỷ lệ tương đối thấp. Đây cũng có thể là một trong những rào cản (rào cản về thông tin) đối với người tiêu dùng. 2.4. Một số đề xuất Đối với doanh nghiệp Kết quả nghiên cứu cho thấy, ý định mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng tại Hà Nội chịu sự tác động nhiều nhất bởi thái độ đối với thực phẩm hữu cơ, tiếp đó là chuẩn chủ quan và cuối cùng là niềm tin. Dựa trên kết quả này, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động H.T.B. Thoa et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 79-90 88 trong thị trường sản phẩm hữu cơ thu hút khách hàng. ● Về thái độ đối với thực phẩm hữu cơ Đây là nhân tố quan trọng nhất tác động đến ý định mua thực phẩm hữu cơ. Nghiên cứu cho thấy thái độ phụ thuộc vào hình thức, hương vị, giá cả và lợi ích sức khỏe từ sản phẩm, trong đó phụ thuộc khá cao vào hình thức và hương vị sản phẩm. Do đó, doanh nghiệp cần phải tìm cách đa dạng hóa sản phẩm của mình và phải đảm bảo việc cung cấp những mặt hàng tươi ngon. Doanh nghiệp cũng nên có chiến lược giá hợp lý, thu hút người tiêu dùng bằng các chính sách khuyến mãi, giảm giá. Tuy nhiên, thái độ của người tiêu dùng chưa phụ thuộc nhiều vào lợi ích sức khỏe từ sản phẩm, cho thấy phần lớn người tiêu dùng chưa nhận thức được lợi ích của thực phẩm hữu cơ đối với sức khỏe, điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có các biện pháp truyền thông, quảng bá để người tiêu dùng thấy rõ hơn yếu tố này. ● Về chuẩn chủ quan Kết quả nghiên cứu cho thấy chuẩn chủ quan ảnh hưởng khá lớn đến ý định tiêu dùng thực phẩm hữu cơ, có nghĩa là quá trình hình thành ý định tiêu dùng của người tiêu dùng thực phẩm hữu cơ tại Hà Nội chịu tác động khá nhiều từ những ý kiến xung quanh. Do đó, nhóm nghiên cứu đề xuất biện pháp marketing hiệu quả cho các doanh nghiệp là marketing truyền miệng. Số liệu của Nielsen (2015) cũng củng cố cho đề xuất này khi cho biết 89% người Việt Nam đặt niềm tin vào những thông tin truyền miệng từ người thân quen. Sử dụng phương thức này, doanh nghiệp có thể tận dụng các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Zalo, Instagram để tạo ra những chủ đề thu hút về sản phẩm của mình, kích thích người tiêu dùng tương tác, thảo luận với nhau [29]. Ngoài ra, việc cung cấp một dịch vụ tốt (tư vấn, bán hàng, vận chuyển) cũng sẽ tạo ấn tượng tốt cho khách hàng và khiến họ muốn giới thiệu sản phẩm cho người khác. ● Về niềm tin Nghiên cứu cho thấy niềm tin vào những hoạt động của thị trường thực phẩm hữu cơ là nhân tố thứ ba ảnh hưởng đến ý định tiêu dùng. Việc doanh nghiệp có được cấp giấy phép chứng nhận (cho việc kinh doanh thực phẩm hữu cơ) hay không ảnh hưởng nhiều đến niềm tin của người tiêu dùng. Do đó, doanh nghiệp cần phải thực hiện quy trình xin chứng nhận cho sản phẩm hữu cơ của mình đúng theo quy định pháp luật; nhập hàng từ những trang trại uy tín có chứng nhận. Một số chứng nhận thực phẩm hữu cơ uy tín tại Việt Nam và trên thế giới là chứng nhận từ VietGAP, PGS (Việt Nam) hoặc từ USDA (Mỹ), NASAA (Úc). Doanh nghiệp cũng cần có cách thức quảng bá chứng nhận mình sở hữu để tăng niềm tin cho người tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy những thông tin trên bao bì ảnh hưởng khá nhiều lên niềm tin và thái độ. Do vậy, một cách thức để tăng niềm tin của người tiêu dùng là thông tin trên bao bì sản phẩm cần phải được cung cấp đầy đủ, chính xác, hữu ích (về thành phần, xuất xứ, hạn sử dụng...) và phải được cập nhật kịp thời khi sản phẩm có thay đổi. ● Về sự quan tâm tới môi trường Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn người tiêu dùng có quan tâm đến môi trường, nhưng điều đó lại không ảnh hưởng đến quá trình hình thành ý định tiêu dùng thực phẩm hữu cơ. Điều này được giải thích là do người tiêu dùng ít đọc, tìm hiểu những kiến thức, thông tin về vấn đề môi trường, do đó chưa đủ nhận thức để hình thành ý định bảo vệ môi trường (ý định tiêu dùng thực phẩm hữu cơ). Do đó, doanh nghiệp cần tìm cách giúp người tiêu dùng tiếp cận dễ dàng hơn với những thông tin về vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt là những tin cho thấy lợi ích của thực phẩm hữu cơ đối với môi trường. Tại Việt Nam, Vingroup là một tập đoàn làm rất tốt việc này, khi họ liên tục quảng bá hình ảnh thân thiện với môi trường của những vườn rau hữu cơ VinEco, tạo ấn tượng tốt trong mắt khách hàng. Đối với người tiêu dùng Kết quả nghiên cứu cho thấy người tiêu dùng chưa thực sự chú trọng đến lợi ích cho sức khỏe của thực phẩm hữu cơ. Trong khi đó, như đã đề cập ở phần lý thuyết, do đặc thù trong việc nuôi trồng nên thực phẩm hữu cơ có ít hàm H.T.B. Thoa et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 79-90 89 lượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật và các loại hóa chất khác hơn nhiều so với thực phẩm truyền thống. Do đó người tiêu dùng cần cân nhắc thêm yếu tố này khi mua thực phẩm hữu cơ để đảm bảo sức khỏe cho bản thân và gia đình. Bên cạnh đó, khi mua thực phẩm hữu cơ, người tiêu dùng cũng cần để ý những giấy phép/chứng nhận mà sản phẩm được cấp. Chủ động báo với các cơ quan chức năng khi phát hiện ra những sản phẩm có dấu hiệu lừa đảo là một cách mà người tiêu dùng có thể thực hiện để tăng tính minh bạch của thị trường thực phẩm hữu cơ và tự bảo vệ quyền lợi của bản thân. Để đảm bảo an toàn nhất có thể, người tiêu dùng nên chọn những sản phẩm hữu cơ từ các thương hiệu uy tín và được khuyên dùng trên thị trường. 3. Kết luận Trước thực trạng thực phẩm bẩn, thực phẩm không rõ nguồn gốc tràn lan trên thị trường, việc tiêu dùng thực phẩm hữu cơ đang trở thành nhu cầu cấp thiết của người tiêu dùng. Thông qua việc sử dụng mô hình mở rộng dựa trên lý thuyết TPB để kiểm định các nhân tố tác động đến ý định tiêu dùng thực phẩm hữu cơ, nghiên cứu đã cung cấp một cái nhìn rộng hơn so với việc sử dụng một mô hình đơn thuần. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố có ảnh hưởng đến ý định theo mức độ tác động giảm dần lần lượt là: Thái độ, Chuẩn chủ quan và Niềm tin. Các nhân tố Sự quan tâm tới môi trường và Nhận thức kiểm soát hành vi tiêu dùng, trái với giả thuyết ban đầu của nhóm nghiên cứu, không có ảnh hưởng đáng kể đến ý định tiêu dùng. Đây là cơ sở để nhóm nghiên cứu đưa ra các đề xuất giải pháp giúp nhà sản xuất, doanh nghiệp có các hoạt động phù hợp để nâng cao ý định mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng, đồng thời đưa ra một vài hàm ý đối với người tiêu dùng để tăng quyền lợi bản thân. Đây là đề tài nghiên cứu cấp sinh viên nên trong quá trình nghiên cứu, nhóm không tránh khỏi những hạn chế. Cụ thể, nhóm nhận thấy kích thước mẫu khảo sát (282 người) là chưa đủ lớn, và địa bàn khảo sát chỉ tập trung tại khu vực Hà Nội. Hơn thế nữa, việc điều tra khảo sát vẫn bị thiên vị do những người trả lời khảo sát phần lớn có trình độ học vấn cao (90,8% người được hỏi có trình độ đại học, cao đẳng trở lên). Đây cũng là một khuynh hướng thiên vị xảy ra khá nhiều đối với những cuộc khảo sát của sinh viên. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự đóng góp của những người quan tâm đến vấn đề này để tiếp tục nâng cao tính thực tiễn của đề tài. Tài liệu tham khảo [1] Mei-Fang. Chen, “Consumer attitudes and purchase intentions in relation to organic foods in Taiwan: Moderating effects of food-related personality traits”, Food Quality and Preference 18 (7) (2007) 1008-1021. [2] Rambalak Yadav, Govind Swaroop Pathak, “Determinants of Consumers’ Green Purchase Behavior in a Developing Nation: Applying and Extending the Theory of Planned Behavior”, Ecological Economics 134 (2017) 114-122. [3] Mohamed Bilal Basha, David Lal, “Indian consumers’ attitudes towards purchasing organically produced foods: An empirical study”, Journal of Cleaner Production 215 (2019), 99-111. [4] C.C. Teng, Y.M. Wang, “Decisional factors driving organic food consumption”, British Food Journal 117 (3) (2015) 1066-1081. [5] K.D.L.R. Kapuge, “Determinants of Organic Food Buying Behavior: Special Reference to Organic Food Purchase Intention of Sri Lankan Customers”, Procedia Food Science 6 (2016) 303-308. [6] Asgarnezhad Nouri Bagher, Farideh Salati, Mohammad Ghaffari, “Factors Affecting Intention to Purchase Organic Food Products Among Iranian Consumers”, Academy of Marketing Studies Journal 22 (3) (2018) 1-23. [7] Lê Thị Thùy Dung, “Các nhân tố tác động đến ý định mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng tại thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Đà Nẵng, 2017. [8] Ngô Minh Hải, Masahiro Moritaka và Susumu Fukuda, “Consumer Awareness of Organic Vegetables in Vietnam: An Application of Ordered Logit Model”, Conference of The Food Systerm Research Association of Japan, At Tsukuba University, March 2013. H.T.B. Thoa et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 79-90 90 [9] Hồ Thị Diệp Quỳnh Châu, “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 2015. [10] Ajzen et al., “The theory of planned behavior”, Organizational Behavior và Human Decision Processes 50 (1) (1991) 179-211. [11] C.V. Jansson-Boyd, Consumer Psychology, Maidenhead: Open University Press, 2010. [12] Bredahl, L., “Determinants of consumer attitudes and purchase intentions with regard to genetically modified foods - Results of a cross-national survey”, Journal of Consumer Policy 24 (2001) 23-61. [13] M. Chen et al., “Transcriptional regulation of yeast phospholipid biosynthetic genes”, Biochim Biophys Acta 1771 (2007) 310-21. [14] B.H. Sheppard, J. Hartwick, P.R. Warshaw, “The theory of reasoned action: A meta-analysis of past research with recommendations for modifications and future research”, Journal of Consumer Research 15 (1988) 325-343. [15] K. Dowd, K.J. Burke, “The influence of ethical values and food choice motivations on intentions to purchase sustainably sourced foods”, US National Library of Medicine National Institutes of Health 69 (2013)137-44. [16] A.H. Eagly, S. Chaiken, The Psychology of Attitudes. Harcourt Brace Jovanovich, Fort Worth, TX, 1993. [17] H. Hill, F. Lynchehaun, “Organic milk: attitudes and consumption patterns”, British Food Journal 104 (7) (2002) 526-542. [18] İbrahim Arpaci, “The impact of cultural collectivism on knowledge sharing among information technology majoring undergraduates”, Computers in Human Behavior 56 (2016) 65-71. [19] M.H. Bond, Oxford Handbook of Chinese Psychology, Oxford University Press, 2010. [20] M. Dean, M.M. Raats, R. Shepherd, “Moral concerns and consumer choice of fresh and processed organic foods”, J. Applied Soc. Psychol. 38 (2008) 2088-2107. [21] M. Vabø, H. Hansen, “Purchase intentions for domestic food: A moderated TPB-explanation”, British Food Journal 118 (10) (2016) 2372-2387. [22] D.M. Rousseau, S.B. Sitkin, R.S. Burt, C. Camerer, Not So Different after All: A Cross- Discipline View of Trust, Academy of Management Review 23 (1998) 393-404. [23] M. Janssen, U. Hamm, “Product Labelling in the Market for Organic Food: Consumer Preferences and Willingness-to-Pay for Different Organic Certification Logos”, Food Quality and Preference 25 (2012) 9-22. [24] C. John, Bernard, Katie Gifford, “Willingness to Pay for Foods with Varying Production Traits and Levels of Genetically Modified Content”, Journal of Food Distribution Research 40 (2006) 1-11. [25] R.J. Angulo, M.C. de Souza, P. Reimer, S.K. Sasaoka, “Reservoir effect of the southern and southeastern Brazilian coast”, Radiocarbon 47 (2005) 1-7. [26] Dunlap, Jones, “Environmental Concern: Conceptual and Measurement Issues”, Journal of Environmental Psychology 19 (4) (2002) 369-382. [27] Samantha Smith, Angela Paladino, “Eating clean & green? Investigating consumer motivations towards the purchase of organic food”, ANZMAC, 2009, pp. 1-8. [28] Vermeir, Verbeke, “Sustainable Food Consumption: Exploring the Consumer “Attitude - Behavioral Intention” Gap, Journal of Agricultural and Environmental Ethics 19 (2) (2006) 169-194. [29] Nielsen, Báo cáo Chỉ số niềm tin người tiêu dùng quý I/2018, 2018. S s p
File đính kèm:
- factors_affect_green_food_consumption_intention_of_consumers.pdf