Du lịch sinh thái cộng đồng Na Hang trong bối cảnh hội nhập toàn cầu
Mô hình du lịch sinh thái cộng đồng đang ngày càng phổ biến bởi nó hướng đến việc liên kết giữa khả năng khai thác tài nguyên hợp lý, bền vững và trách nhiệm bảo vệ môi trường tự nhiên của cộng đồng địa phương. Đó cũng là sự hài hòa giữa lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, không chỉ quan tâm bảo vệ môi trường tự nhiên, du lịch sinh thái cộng đồng ở một số địa phương đang được tổ chức xây dựng và phát triển với mục tiêu gìn giữ và phát huy môi trường văn hóa. Mỗi địa phương có đặc thù, thế mạnh riêng trong phát triển du lịch sinh thái cộng đồng, không thể áp đặt mô hình chung. Bài viết này phân tích, làm rõ tiềm năng và điều kiện thực tế của huyện Na Hang (tỉnh Tuyên Quang) để phát triển du lịch sinh thái cộng đồng hiệu quả trong bối cảnh hội nhập toàn cầu
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Du lịch sinh thái cộng đồng Na Hang trong bối cảnh hội nhập toàn cầu
bắt đầu phát triển ở Na Hang từ năm 2016, đến nay được khá nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến. Tại thôn Nà Khá, xã Năng Khả có 2 hộ gia đình tham gia dịch vụ homestay, trung bình mỗi hộ có thể đảm bảo cho trên 20 khách nghỉ/đêm. Giá nghỉ trung bình cho mỗi khách là 70.000 đồng/ngày/người. Giá này chưa tính các chi phí ăn, uống, xem biểu diễn văn nghệ. Tại các bản được đánh giá có khả năng phát triển du lịch homestay và trải nghiệm không gian văn hóa bản làng có trên 15 hộ gia đình tham gia cung cấp nhà nghỉ cộng đồng cùng với đó là các dịch vụ khác được người dân cung cấp: Biểu diễn văn nghệ truyền thống, nấu ăn thuê. Cùng với việc nghỉ lại ở các khu homestay, người dân ở đây còn cung cấp thêm dịch vụ ăn uống và biểu diễn văn nghệ truyền thống của địa phương. Đội văn nghệ chủ yếu do chi hội phụ nữ của bản thành lập. Trung bình mỗi đội văn nghệ có 6 - 8 thành viên, biểu diễn mỗi tối khoảng 1h - 1,5h và đội văn nghệ được khách trả 600.000 đồng/tối - 700.000 đồng/buổi biểu diễn. Các bài biểu diễn thường là Páo dung của dân tộc Dao, hát Then của người Tày... Dịch vụ này không những đem lại việc làm và thu nhập ổn định cho người dân, đặc biệt là phụ nữ, mà còn gìn giữ được những nét văn hóa truyền thống của địa phương. Đặc biệt, câu lạc bộ Bảo tồn văn hóa dân tộc Dao được thành lập năm 2014 truyền dạy và tổ chức biểu diễn các làn điệu Páo dung, các điệu múa trong nghi lễ tín ngưỡng, KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 150 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH các trò chơi dân gian của người Dao. Chính việc phát triển du lịch đã thúc đẩy người dân bảo tồn và khôi phục những lời ca, điệu múa của dân tộc mình. * Dịch vụ du lịch trải nghiệm nông nghiệp nông thôn Với đặc trưng tự nhiên là nằm ở độ cao 1.287m so với mặt nước biển, Hồng Thái khá phù hợp cho sự phát triển của cây chè San Tuyết, cây lê và một số rau củ quả đặc trưng của vùng nhiệt đới. Đặc biệt, một số hộ dân nơi đây đã phát triển hợp tác xã Sơn Trà chuyên cung cấp các sản phẩm chè San Tuyết, hợp tác xã rau sạch Tân Hợp. Cho đến nay, các hợp tác xã này đã đưa ra thị trường các loại nông sản sạch như chè, rau xanh, bí, lê... được ưa chuộng. Nhiều sản phẩm nông sản đã được du khách mua về làm quà sau mỗi chuyến đi. Với thuận lợi này, người dân bên cạnh việc sản xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch đưa ra thị trường, nơi đây có thể phát triển đón khách tham quan vào vườn thu hoạch rau, hái quả, chụp ảnh, bán các sản phẩm nông nghiệp. Hoạt động này không những tăng thêm thu nhập cho người dân, mà còn đa dạng thêm các sản phẩm du lịch cho địa phương. Với điều kiện về tài nguyên, các dịch vụ du lịch cung cấp ở Na Hang, cho đến nay lượng khách du lịch biết thông tin và tham gia các chuyến du lịch ở Na Hang đã tăng lên (Hình 1). Hình 1. Lượng khách du lịch đến Na Hang giai đoạn 2016-2018 Nguồn: Thống kê huyện Na Hang các năm 2016, 2017, 2018. Với một số sản phẩm du lịch đặc trưng trên, lượng du khách đến Na Hang có xu hướng tăng. Nếu năm 2016 chỉ có 136.526 lượt khách đến Na Hang, đến năm 2017, lượng khách đã đạt 160.808 lượt. Năm 2018, Na Hang đã đón 188.300 lượt khách, tăng 14,6% so với năm 2017. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2019, với ngày nghỉ lễ 30/4 - 1/5, Na Hang đã đón được 28.000 lượt khách du lịch. Điều này cho thấy, hoạt động du lịch ở Na Hang được khách du lịch trong và ngoài nước biết tới ngày càng nhiều. Tuy nhiên, các sản phẩm du lịch vẫn còn đơn điệu. Trong bối cảnh hội nhập, để thu hút khách du lịch nội địa và khách quốc tế, du lịch Na Hang còn gặp rất nhiều khó khăn thách thức và cần có những giải pháp, hướng đầu tư tập trung để làm nổi bật đặc trưng sản phẩm du lịch của mình. 5. Thảo luận Phân tích ở trên cho thấy, Na Hang hiện đang có thế mạnh trong phát triển du lịch homestay, du lịch tham quan dã ngoại, du lịch trải nghiệm nông nghiệp. Theo quy hoạch du lịch của huyện Na Hang, nơi đây sẽ hình thành một số phân khu chức năng như Khu lâm viên Phiêng Bung (có sân bay mini, trường đua ngựa, sân golf, bãi cắm trại), Khu lâm thủy Cọc Vài (gồm khu biệt thự, đảo nuôi thú, khu thể thao mạo hiểm, khu câu cá, bến cảng), khu thể thao trên nước, khu làng văn hóa lịch sử. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển, các nhà quản lý cần lưu tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái cho KBTTN. Chỉ nên xây dựng và phát triển những phân khu thực sự cần thiết, không nên xây dựng một cách tràn lan mà dễ đánh mất tính hoang sơ thiên nhiên của KBTTN. Trước mắt, nên tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng của các dịch vụ đã và đang cung cấp tại địa phương: tham quan dã ngoại KBTTN, homestay, trải nghiệm nông nghiệp, phát triển thêm du lịch mạo hiểm khám phá hang động, leo núi. Từ thực tế tự nhiên và xã hội của địa phương, chúng tôi đề xuất một số giải pháp có thể triển khai trong thời gian gần: - Đa dạng sản phẩm và nâng cao chất lượng du lịch * Đối với du lịch homestay: Hiện tại một số điểm du lịch cộng đồng ở huyện Na Hang mới chỉ dừng lại ở việc đón khách lưu trú tại gia, xem biểu diễn văn nghệ truyền thống và thưởng thức ẩm thực dân tộc. Vì vậy muốn kéo dài thời gian lưu trú của khách, sử dụng các dịch vụ, tăng doanh thu tại các điểm du lịch cộng đồng thì trong tương lai, du lịch cộng đồng cần phát triển các sản phẩm, dịch vụ như: Hướng dẫn viên địa phương; phục vụ ăn uống (khách tự chế biến các món ăn truyền thống và thưởng thức cùng người dân bản địa); cung cấp dịch vụ chỗ ở/lưu trú; bán hàng thủ công mỹ nghệ, phục vụ phương tiện đi lại (cho thuê phương tiện vận chuyển); mở thêm các tour, tuyến du lịch tham quan các bản làng trong KBTTN. * Đối với du lịch trải nghiệm nông nghiệp nông thôn: Dịch vụ du lịch này có tiềm năng phát triển ở Hồng Thái, nơi có nhiều hợp tác xã rau sạch, vườn lê, vườn chè, ruộng bậc thang. Để du lịch trải nghiệm nông thôn ở Na Hang không bị trùng lặp với các địa phương miền núi khác, cần nghiên cứu thiết kế các chương trình du lịch trải nghiệm đặc thù của địa phương: như đề xuất một mức vé trải nghiệm nhất định, khách tham gia có thể mang các sản phẩm nông nghiệp mà họ thu hái được; trồng các loại rau quả nông nghiệp đặc sản của địa phương KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 151Volume 9, Issue 4 (chẳng hạn mở rộng nâng cao chất lượng vườn lê), mở rộng dịch vụ thăm quan, chụp ảnh dã ngoại Trên đây là hai sản phẩm du lịch thế mạnh của Na Hang, địa phương có thể phát triển du lịch mạo hiểm, trải nghiệm khu bảo tồn, leo thác. Để phát triển tốt dịch vụ du lịch này, địa phương cần nghiên cứu thiết kế thêm các tour đi thăm khu bảo tồn, kết hợp vào thăm các bản làng ở xung quanh các điểm du lịch này. Bên cạnh đó, cần kết nối các điểm du lịch Na Hang với các địa phương khác trong vùng tạo tuyến du lịch đa dạng nhằm thu hút khách đến với Na Hang là điều cần được quan tâm. - Nâng cao năng lực cộng đồng Đây là giải pháp then chốt trong việc phát triển DLST cộng đồng. Bởi vì, trong loại hình du lịch này, bên cạnh yếu tố về tài nguyên thì yếu tố về con người là rất quan trọng. Mặc dù theo điều tra, chính quyền địa phương cũng đã tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn cho những người tham gia làm du lịch ở địa phương, nhưng chất lượng cũng như hiệu quả của các chương trình này thực sự chưa như mong đợi. Hầu hết những người tham gia làm du lịch cũng như cung cấp các dịch vụ du lịch là làm tự phát, kỹ năng nghề nghiệp chưa chuyên sâu. Vì vậy, chính quyền cần có chủ trương mở các khoá đào tạo liên tục, hướng đến các kỹ năng chuyên nghiệp theo các mô hình du lịch, cụ thể: - Du lịch Homestay: Tập huấn người dân cách đón khách, xây dựng chương trình khi cho khách nghỉ tại gia đình, đặc biệt, vấn đề đảm bảo vệ sinh nhà ở, chuẩn bị các trang thiết bị phục vụ sinh hoạt. - Du lịch trải nghiệm nông nghiệp nông thôn: Tổ chức tập huấn nâng cao năng lực người dân địa phương theo từng chủ đề: lớp giới thiệu kỹ năng đón khách; lớp giới thiệu kỹ năng thuyết trình hướng dẫn chăm sóc, thu hoạch sản phẩm nông nghiệp; lớp giới thiệu về chế biến sản phẩm nông nghiệp. - Du lịch tham quan dã ngoại khu bảo tồn, phát triển thêm du lịch khám phá hang động, leo núi: Tấp huấn người dân về các bước giới thiệu điểm du lịch; tập huấn về cách giữ an toàn cho bản thân và du khách trong cả chuyến du lịch, Đặc biệt, với một địa phương vùng núi, cơ cấu dân số đa dạng trong thành phần dân tộc, có nền văn hóa khác nhau, việc đào tạo nguồn nhân lực là một việc làm hết sức khó khăn, cần được tiến hành trong một lộ trình lâu dài, được nghiên cứu và lên kế hoạch cụ thể, đặc biệt là đối với đội ngũ con em người dân tộc. Trong việc đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực: Tuyển chọn trực tiếp người dân địa phương, đào tạo cho họ những kỹ năng làm việc trong hoạt động du lịch. Trong quá trình đào tạo cần đi đôi thực hành nghiệp vụ và có lồng ghép nâng cao nhận thức cộng đồng trong bảo tồn tự nhiên, gìn giữ bản sắc văn hóa cộng đồng. - Cải thiện vệ sinh môi trường Theo tiêu chí của DLST, vấn đề môi trường cần được coi trọng. Để nâng cao chất lượng môi trường, có thể thực hiện một số việc: (1) Thành lập các điểm thu gom rác hợp lý, đặc biệt là tại các bản tham gia cung cấp dịch vụ du lịch homestay; (2) Tuyên truyền nâng cao ý thức cộng đồng (người dân, khách du lịch) về giữ gìn vệ sinh môi trường, cải tạo nhà vệ sinh cũng như khu vực chăn nuôi; (3) Tuyên truyền bảo vệ môi trường thông qua việc xây dựng các ấn phẩm tờ rơi, áp phích, bản đồ,... nhằm quảng bá thông tin về khu vực, vừa gửi đến du khách thông điệp bảo vệ môi trường ở điểm đến. Ngoài ra, ở các điểm du lịch cũng có thể treo khẩu hiệu, hình ảnh bảo vệ tài nguyên môi trường... - Giải pháp về quản lý Cần có sự kết hợp đồng bộ giữa các ban ngành có liên quan, đặc biệt là sự thống nhất quản lý ở cấp địa phương, cấp xã để tạo điều kiện tốt nhất cho du lịch phát triển. Theo đúng ý nghĩa cốt lõi của DLST cộng đồng, mỗi địa phương phải có Ban quản lý du lịch với sự tham gia trực tiếp của cộng đồng dân cư đã và đang làm du lịch ở các bản cộng đồng. Ban quản lý cần phải đưa ra phương hướng hoạt động, lên kế hoạch phân chia lượng khách du lịch tới từng hộ gia đình, tránh tình trạng hộ gia đình quá đông khách, hộ gia đình lại không có khách. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần có sự liên kết với các điểm du lịch ở tỉnh bạn để tránh sự đầu tư chồng chéo, xây dựng các sản phẩm du lịch na ná nhau, dẫn đến sự nhàm chán đối với du khách khi tham gia các chuyến du lịch ở vùng núi. 6. Kết luận Na Hang là một trong những địa phương miền núi có điều kiện thuận lợi cả về tự nhiên và con người để phát triển du lịch. Với lợi thế đó, Na Hang đã xác định du lịch là một trong những hướng ưu tiên cho phát triển kinh tế hiện nay. Các sản phẩm du lịch chính của Na Hang cần được chú trọng là thăm quan ngắm cảnh, homestay, trải nghiệm văn hoá nông nghiệp. Du khách đến với Na Hang có xu hướng tăng theo thời gian. Trong bối cảnh hội nhập, bên cạnh thuận lợi thì cũng đặt ra thách thức đối với Na Hang mà thách thức lớn nhất là xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù riêng của địa phương. Để đáp ứng được điều này, trước mắt địa phương cần áp dụng một số giải pháp về đa dạng sản phẩm du lịch, về đào tạo nguồn nhân lực, về cải thiện và bảo vệ môi trường, về nâng cao năng lực quản lý. Đặc biệt, vấn đề liên kết với các địa phương lân cận trong việc quy hoạch, xây dựng đầu tư du lịch tránh sự chồng chéo, trùng lặp về sản phẩm du lịch là vấn đề cũng cần được lưu tâm. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 152 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH Tài liệu tham khảo Chung, N. (2020). Du lịch sinh thái khu bảo tồn thiên nhiên tát kẻ bản bung Na Hang (khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang). Truy cập ngày 15/5/2020, từ website: sinh-thai-khu-bao-ton-thien-nhien-tat-ke- ban-bung-na-hang Độ, N. V. (2003). Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang (Chủ biên). Nxb. Văn hóa Dân tộc. Taylor, Boo. E. (1990). Ecotourism: the potential and pitfalls. 2. Washington DC. Honey, M. (1999). Ecotourism anh Sustainable development: Who owns paradise? Linh, G. (2016). Na Hang, tiềm năng du lịch của mảnh đất xứ Tuyên. Tạp Chí Môi Trường, Số 3. Lương, P. T., Quân, H. H., Khánh, N. N., Lanh, L. V., & Thông, Đ. Q. (2002). Du lịch sinh thái - những vấn đề lí luận và thực tiễn ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. Khoa, N. Đ. (2015). Phát triển du lịch cộng đồng huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 374, tháng 8/2015, tr. 51-54. Quế, V. (2006). Du lịch cộng đồng: Lý thuyết và vận dụng. Hà Nội: Nxb. Khoa học và Kỹ thuật. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (2017). Luật du lịch. Simpson and Wall. (1999). Enviroment Impact Assessment for tourism: a discussion and an Indonesan example. Thanh, T. Đ., & Hoa, T. T. M. (2014). Giáo trình địa lý du lịch (T. Đ. Thanh, Chủ biên). Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Thảo, L. B. (1990). Thiên nhiên Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học và Kỹ thuật. Tổng cục Thống kê. (2019). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2019. Hà Nội: Nxb. Thống kê. Vân, P. T. C. (2018). Cơ sở khoa học cho phát triển DLST dựa vào cộng đồng huyện miền núi Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Luận án tiến sỹ Trường ĐH khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, & Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới. (1998). Tuyển tập báo cáo hội thảo “DLST và phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam. Hà Nội. Yến, B. T. H. (2008). Du lịch Cộng Đồng. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. NA HANG COMMUNITY ECOTOURISM IN THE CONTEXT OF GLOBAL INTERGRATION Pham Thi Cam Vana Hoang Thi Le Thaob Institute of Anthropology a Email: phuongmauthai249@gmail.com b Email: nungathao@yahoo.com Received: 10/8/2020 Reviewed: 09/11/2020 Revised: 12/11/2020 Accepted: 13/11/2020 Released: 20/11/2020 DOI: https://doi.org/10.25073/0866-773X/447 Abstract Community ecotourism model is more and more popular because it aims to link the ability of local communities to exploit natural resources reasonably and sustainably and to protect the natural environment. It is also the harmony between economic benefits and environmental protection. However, it is not only about protecting the natural environment, community ecotourism in some localities are being built and developed with the goal of preserving and promoting the cultural environment. Each locality has its own characteristics, and strength in community ecotourism development, so that we cannot impose a common model. We look forward to understanding and clarifying the potential and the factual conditions of Na Hang district (Tuyen Quang province) to develop effective community ecotourism in the context of global integration. Keywords Eco tourism; Community tourism; Intergration; Globalization; Culture.
File đính kèm:
- du_lich_sinh_thai_cong_dong_na_hang_trong_boi_canh_hoi_nhap.pdf