Di tích về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Lang Chánh và vấn đề phát huy giá trị trong hoạt động du lịch
Tóm tắt: Lang Chánh là một trong những địa bàn quan trọng của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn thời kỳ đầu hoạt động ở miền Tây Thanh Hóa. Ở đây, nghĩa quân đã trải qua những
tháng ngày đấu tranh gian khổ trước sự truy lùng, càn quét ráo riết của quân Minh. Dưới sự
lãnh đạo tài tình của người chủ tướng Lê Lợi, sự đồng cam cộng khổ, quyết tâm của nghĩa
quân và sự đùm bọc của cộng đồng cư dân, lại dựa vào địa thế hiểm yếu của núi Chí Linh,
lực lượng khởi nghĩa đã được bảo toàn, tạo tiền đề cho bước phát triển về sau. Đồng thời,
những dấu ấn về cuộc khởi nghĩa đã được lưu lại một cách sâu đậm trong tâm thức dân gian,
để trở thành một hệ thống di tích phong phú, đặc trưng của Lang Chánh, có khả năng phát
huy trong hoạt động du lịch
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Di tích về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Lang Chánh và vấn đề phát huy giá trị trong hoạt động du lịch
truy lùng của chúng để nghĩa quân có thời gian thoát đi an toàn, cuối cùng lao mình xuống dòng thác. Khi quân Minh rút đi, Lê Lợi đã cho quân lính tìm xác con chó và cho chôn cất tử tế. Để tưởng nhớ chú chó trung thành, đầy nghĩa tình, Lê Lợi đã đặt tên dòng thác là Ma Háo, theo tiếng Thái là “chó ngáp”, lâu dần người ta đọc chệch thành Ma Hao. Ma Hao là một thác nước lớn còn hoang sơ. Đường đi đến thác phải băng qua một đoạn rừng cây cối xanh tươi. Trong lòng thác là vô số các hòn cuội lớn nhỏ với nhiều hình thù khác nhau, khiến du khách có thể tưởng tượng đến hình ảnh một đàn voi đang tắm suối, một bãi trứng khổng lồ hay những hòn non bộ Thác tràn xuống từ vách núi trên cao tạo nên những màn nước độc đáo khiến người ta liên tưởng tới một mái tóc dài vắt ngang qua rừng rậm xanh thẳm. Nước suối quanh năm trong mát, lại có những vũng lớn để du khách có thể sử dụng như hồ bơi. 2.3. Chùa Mèo và chiếc chuông thời Lê Chùa Mèo tên chữ là Đỉnh Miêu thiền tự, có thể hiểu là ngôi chùa trên đỉnh núi Mèo (theo dân gian, xưa kia trên đồi có nhiều mèo hoang sinh sống nên gọi là đồi Miêu, tên chùa có thể được gọi theo đặc điểm này), hoặc ngôi chùa ở ngọn núi xanh tươi (từ “miêu” trong tiếng Hán có nghĩa là xanh tươi). Chùa tọa lạc trên một ngọn đồi ở thôn Chiềng Ban, xã NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 92 Quang Hiến. Chùa còn có tên là chùa Chu, bởi tương truyền được công chúa nhà Trần là Chu Huyền cùng nhà Lang Mường Chếnh xây dựng. Chùa tọa lạc trong một vùng rừng núi, sông suối hữu tình, có núi trùng điệp bao bọc phía sau và hai bên như một chiếc ngai, có sông Âm phía trước làm minh đường. Dân gian trong vùng vẫn còn truyền tụng câu tục ngữ: “Nhất Hương, nhì Hà, ba Chu”, coi đây là một trong 3 ngôi chùa linh thiêng nhất xứ Thanh. Truyền thuyết kể rằng, trong một lần Lê Lợi và nghĩa quân bị quân Minh truy sát ráo riết phải tìm cách ẩn nấp. Lê Lợi đã vào chùa Chu, lúc này rất hoang vắng để lánh nạn. Giặc Minh xua quân và chó săn tới vây ngay chỗ ông đang ẩn nấp, tình thế vô cùng nguy hiểm. Bỗng dưng có một con mèo từ trong lao ra đánh lạc hướng đàn chó và quân giặc, giải nguy cho người thủ lĩnh. Thoát kiếp nạn, Lê Lợi và nghĩa quân nán lại chùa thắp hương khấn Phật, cầu nguyện cho sự nghiệp kháng chiến thắng lợi4. Câu chuyện về chùa Chu gắn với vị anh hùng dân tộc Lê Lợi còn có một dị bản khác như sau: Một lần, khi hành quân qua chùa, Lê Lợi và nghĩa quân đã vào chùa thắp hương lễ Phật cầu nguyện cho sự nghiệp kháng chiến thắng lợi. Lê Lợi thấy trong chùa chỉ còn lại một con mèo, sư sãi không biết đã đi lánh ở đâu. Lê Lợi cho lính bắt lấy con mèo mang theo trên đường rút quân vào Hón Oi. Khi có tin cấp báo quân giặc đang ráo riết đuổi theo nghĩa quân, Lê Lợi cho lính bỏ lại con mèo ở một rãnh đồi cách chùa chừng 700m, ngày nay nhân dân gọi là Hòn Bỏ Mèo. Chính vì vậy, ngôi chùa Chu trong tâm thức nhân dân Lang Chánh là nơi che chở, đồng thời ghi dấu khát vọng mãnh liệt chiến thắng giặc ngoại xâm của nhân dân lúc bấy giờ. Đuổi giặc Minh xong, lên ngôi vua, Lê Lợi đã sắc chỉ đổi tên chùa Chu thành chùa Mèo. Sau này, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc đại phá quân Thanh thắng lợi đã có chiếu chỉ tu sửa, tôn tạo chùa Mèo. Tại chùa Mèo còn có một chiếc chuông quý, hiện nay đang được lưu giữ tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa. Chuông cao 109cm, chu vi 149cm, đường kính miệng 50cm, đường kính đỉnh 30cm5. Niên đại đúc chuông cũng được khắc rõ ràng vào ngày Tết cuối xuân năm Vĩnh Thịnh thứ 14 (tức năm 1718). Chuông có 6 núm, quai chuông được tạo hình cân xứng, với mũi sư tử, bờm dài, tai dơi, thân phủ vây cá, móng nhọn, đuôi ngoắc vào nhau. Đường nét được đúc một cách sắc sảo, mang phong cách thời Lê Trung hưng. Phần vai chuông được đúc nổi 8 chữ “Chú tạo Miêu đỉnh thiền tự hồng chung” (ghi chép về việc làm chuông chùa trên đỉnh núi Mèo). Bài minh trên chuông có đoạn: “Âm vang tiếng chuông có thể nói vào hàng đầu, vì nó có thể làm thức tỉnh được những cơn mê của đông đảo chúng sinh”. Điều đáng lưu ý là trên thân chuông khắc dày đặc chữ Hán ghi chép về việc “nhiều bản hội trong xứ Thanh Hoa” hưng công xây chùa, đúc chuông. Đó là đồng bào dân tộc ở động Khang Chánh, động Lương Sơn, châu Lang Chánh, quan Thổ Tù... Cũng lại có sự góp công của người Việt dưới đồng bằng ở thôn Trung Hòa, xã An Lãng, huyện Thụy Nguyên, 4 Theo lời kể của trụ trì Thích Nguyên Hải, đăng trên chuyen-vua-le-thoat-kiep-nan-245792.html ngày 3/3/2018. 5 Số liệu của Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 93 phủThiệu Thiên (nay là huyện Thiệu Hóa)6. Từ đó cho thấy, giá trị quý giá của chuông chùa Mèo không chỉ ở nghệ thuật đúc chuông, nghệ thuật độc đáo mang phong cách đầu thế kỷ 18, mà hơn hết, cả chuông và chùa ở một vùng rừng núi xa xôi miền Tây Thanh Hóa đã quy tụ được sự hưng công xây dựng của nhân dân các dân tộc, ở khắp mọi miền xứ Thanh. Như vậy, tuy được đúc ở thời gian về sau, cách cuộc khởi nghĩa Lam Sơn 200 năm, nhưng như được tiếp nối tinh thần lịch sử thời trước, trở thành điểm quy tụ cộng đồng, và hơn hết là biểu hiện sự thống nhất vững chắc của dân tộc. Ngày nay, lễ hội chính của chùa Mèo được tổ chức vào ngày 6 tháng giêng hàng năm thu hút đông đảo khách thập phương đến tham gia. 2.4. Các làng bản có tên liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Trong những tháng ngày gian khổ chiến đấu ở vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn không chỉ nhận được sự đùm bọc, che chở của đồng bào các dân tộc ở đây, mà còn được đồng bào yêu mến, sáng tạo, lưu truyền nhiều truyền thuyết đẹp. Ở Lang Chánh, nhiều bản làng có tên gọi gắn với những sự kiện, huyền thoại về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn7: - Làng Chiềng Lẹn: Một lần Lê Lợi chạy trốn giặc Minh qua đây thì cả làng đóng góp lương thảo cho nghĩa quân rồi cùng Lê Lợi chạy lên làng Húng. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, đất nước hòa bình, nhân dân mới quay về làng làm ăn sinh sống. Vì lẽ đó mà làng có tên là Chiềng Lẹn (tức làng Chạy). - Làng Húng: Một hôm khi bị giặc bao vây ráo riết, Lê Lợi đang tìm đường để thoát thì từ trong rừng sâu núi thẳm âm u bỗng thấy một điểm sáng ở phía Tây Nam. Lê Lợi cùng nghĩa quân cắt rừng nhằm hướng có điểm sáng để đi. Đến nơi, trời cứ sáng rõ dần và quả là có đường đi để thoát. Lê Lợi đặt tên cho nơi ấy là Húng. Húng trong tiếng Thái có nghĩa là “sáng”, được nhân dân dùng làm tên làng cho đến ngày nay. - Làng Hiên: Một lần bị giặc truy đuổi ráo riết, chỉ còn Lê Lợi và một người lính thân cận. Cả hai người bèn cải trang thành người nông dân vào làng xin ngủ trọ. Dân làng này vốn hiếu khách nên chủ nhà làm cơm mời hai người ăn nhưng không có gì ngoài bát canh rau hiên nấu với lươn. Lê Lợi không ăn được thịt lươn nên suốt buổi chỉ ăn cơm với muối trắng. Sau hôm ấy, khi khách đã đi rồi, gia đình nọ mới biết đó chính là Lê Lợi. Họ bèn kể cho cả làng cùng nghe, sau đó dân làng cùng thống nhất đặt tên làng mình là làng Hiên để ghi nhớ kỷ niệm này. - Làng Năng Cát: Trong một lần hành quân, qua đây khi trời đã về chiều, Lê Lợi cho ba quân hạ trại, nấu cơm, quân sĩ mang nồi niêu ra khe suối để vo gạo, lấy nước nấu cơm. Vì quân đông, lại vội vàng nên làm khe cạn, nước nấu cơm lẫn cả cát dưới khe. Khi dùng bữa, thấy có cát dưới đáy nồi cơm, để khắc ghi dấu ấn những ngày đầu gian khổ, Lê Lợi liền đặt tên cho vùng đất này là Năng Cát, tên ấy ngày nay vẫn được lưu giữ. 6 Theo Trịnh Sinh (2014), Dấu tích thời Lê trên đất Mường Lang Chánh, https://baomoi.com/dau-tich-thoi-le- tren-dat-muong-lang-chanh/c/23252660.epi 7 Sự giải thích tên làng dưới đây theo tư liệu của cuốn Địa chí huyện Lang Chánh, Nxb Khoa học Xã hội, tr.546 - 547 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 94 2.5. Các di tích khác Gắn với bước chân của nghĩa quân Lam Sơn trên vùng đất Lang Chánh còn nhiều địa điểm, mà ngày nay các truyền thuyết vẫn còn in đậm trong tâm thức của người dân nơi đây. Suối Lá (Huối Vớ) ở xã Giao An, tương truyền là nơi Nguyễn Trãi, trong những ngày “nằm gai nếm mật” đã cho người dùng mật, bôi lên lá cây dòng chữ “Lê Lợi vi vương, Lê Lai vi tướng, Nguyễn Trãi vi thần”, sau đó, kiến rừng ăn mật, vô tình đục thủng lá cây, để lại dòng chữ trên khiến cho quân sĩ tin tưởng đây là mệnh trời, thêm dốc lòng đánh giặc. Cạnh suối Vớ có suối Láu, theo truyền thuyết, nơi đây Lê Lợi đã cho đổ rượu xuống suối, cùng ba quân múc uống“hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Làng Húng (xã Giao Thiện), làng Đáy (xã Tân Phúc) đều có hòn đá vua ngồi, gắn với sự kiện khi Lê Lợi rút quân về khu vực núi Pù Rinh để bảo toàn lực lượng, hòn đá này là nơi ghi lại dấu tích của ông ngồi nghỉ lại. Làng Chiềng Lẹn, làng Lằn Sổ, làng Tượt, bản Húng, hang Lòn - nơi Lê Lợi từng trú ẩn, dấu binh lương. Hón Oi (xã Quang Hiến) tương truyền có 12 cửa trạm mà Lê Lợi đã dấu quân, luyện tập binh mã, ở cửa trạm thứ 12 có Thác Ông - thác Lê Lợi gắn với vị chủ tướng của cuộc khởi nghĩa. Ở làng Năng Cát hiện nay có đền thờ Lê Lợi. Đền thờ này vốn được nhân dân dựng lên ngay sau khi Lê Lợi mất để tưởng nhớ công ơn. Trải qua sự hủy hoại của thời gian, thiên nhiên và con người, đền thờ cũ không còn. Gần đây, để tiếp nối lại truyền thống xưa, đền thờ mới được xây dựng với quy mô khiêm tốn, nhưng đã trở thành nơi sinh hoạt tâm linh cho nhân dân trong vùng. 3. Vấn đề phát huy giá trị trong hoạt động du lịch Những di tích gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở Lang Chánh không những là “gạch nối” của quá khứ hào hùng với hiện tại, mà còn là nguồn liệu lịch sử - văn hóa quý báu có thể phát huy trong bối cảnh hiện tại để phát triển kinh tế - xã hội. Khía cạnh quan trọng nhất của các di tích này có thể đóng góp cho huyện Lang Chánh đó là sự khác biệt, khiến cho du lịch cộng đồng hay du lịch sinh thái ở Lang Chánh mang được màu sắc riêng so với nơi khác đồng dạng như Pù Luông. Theo đánh giá của các chuyên gia du lịch thì sự khác biệt này là vốn quý trong phát triển du lịch.Hiện nay, Lang Chánh có 3 điểm du lịch thuộc tuyến du lịch số 5 của tỉnh Thanh Hóa, đó là: Di tích lịch sử văn hóa Chùa Mèo - Danh lam thắng cảnh Thác Ma Hao - Bản Nguyên sơ, bản Năng Cát, xã Trí Nang. Cả 3 điểm này đều chứa đựng dấu ấn độc đáo liên quan đến thời kỳ gian khổ của nghĩa quân Lam Sơn. Bên cạnh đó, những dấu tích, địa điểm khác cũng có khả năng khai thác tốt trong hoạt động du lịch. Một số điểm cần lưu ý là: - Các di tích gắn với khởi nghĩa Lam Sơn ở Lang Chánh đều nằm lẻ tẻ ở những khu vực xa xôi, ẩn khuất trong rừng núi. Vì vậy, để khai thác hiệu quả các giá trị độc đáo này cần kết hợp với việc phát huy thế mạnh của Lang Chánh trong hoạt động du lịch là du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Việc xây dựng các điểm, tuyến du lịch cần kết hợp nhiều yếu tố đặc trưng để du khách có thể “thưởng thức cùng lúc nhiều món ăn”: được leo núi, vượt rừng, tắm thác, được thưởng thức các món ăn đặc trưng của đồng bào, được chìm đắm trong không gian NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 95 thiêng liêng của các di tích, được say sưa khám phá các nét văn hóa còn nguyên sơ đầy kỳ thú trong các bản làng. - Lựa chọn bản Năng Cát làm điểm du lịch trọng điểm của huyện gắn với du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Nói về du lịch sinh thái ở xứ Thanh ngày nay người ta hay nghĩ tới Pù Luông bởi nơi đây có hệ sinh thái rừng và hệ động thực vật phong phú, cảnh quan thiên nhiên đa dạng, nguyên sơ và văn hóa cộng đồng người Thái vẫn còn giữ được nhiều giá trị độc đáo. Thực tế ở Pù Luông đã xây dựng được trung tâm thông tin du lịch, khu du lịch cộng đồng, khu nghỉ dưỡng cao cấp, khu bảo tồn động, thực vật phục vụ tham quan với diện tích được quy hoạch lên đến gần 18.000ha. Mặc dù chưa có bề dày khai thác và nổi tiếng như Pù Luông nhưng bản Năng Cát có những lợi thế riêng để có khả năng phát triển tốt hơn nữa trong tương lai. Nằm dưới chân núi Chí Linh, khí hậu ở đây quanh năm mát mẻ, có thể ví như một Sa Pa của xứ Thanh, xung quanh có nhiều thắng cảnh đẹp, đặc biệt là thác Ma Hao. Người dân trong bản còn lưu giữ được nhiều nếp nhà sàn truyền thống cùng với phong tục độc đáo của đồng bào người Thái. Đặc biệt những dấu tích, truyền thuyết về Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn ở Lang Chánh có thể quy tụ về đây để xây dựng thành một khu tưởng niệm với nhiều hạng mục: đền thờ Lê Lợi, khu tái hiện lịch sử chống giặc Minh nhấn mạnh đến những sự kiện gian khổ khi nghĩa quân phải ẩn nấp trên núi Chí Linh, điểm dừng chân thổi cơm của nghĩa quân Lam Sơn, tảng đá Lê Lợi, gốc cây ngàn năm tuổi, vườn cây Bên cạnh đó, khai thác các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Thái để tạo thành điểm nhấn liên hoàn: tổ chức xòe Thái, hát Khắp, biểu diễn cồng chiêng, tổ chức dệt thổ cẩm cho du khách trải nghiệm. Những nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực cũng cần chú trọng để tạo cho du khách một sự thích thú khi đến đây. - Chú trọng đến vấn đề liên kết phát triển du lịch. Liên kết các điểm có di tích gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để tạo thành một tour du lịch về nguồn; liên kết điểm có di tích với làng bản truyền thống, suối, thác để tạo nên những sản phẩm du lịch phong phú trên cùng một tour; liên kết Lang Chánh với những điểm du lịch khác trong và ngoài tỉnh để tăng cường hiệu quả khai thác. 4. Thay lời kết Hệ thống di tích gắn với khởi nghĩa Lam Sơn ở Lang Chánh là tài sản tinh thần, nhân văn to lớn của địa phương, thể hiện truyền thống lịch sử văn hóa đáng quý và tự hào của cộng đồng cư dân bản địa. Trong bối cảnh hiện nay, việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa một cách hữu hiệu đối với hệ thống di sản, di tích này là vấn đề cấp bách đang được đặt ra. Để công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích gắn với khởi nghĩa Lam Sơn ở Lang Chánh thực hiện có hiệu quả, rất cần sự nghiên cứu chuyên sâu và chuyên nghiệp. Đặc biệt, phải có chương trình điều tra tổng thể, toàn diện và đưa hệ thống di tích này vào công tác bảo vệ thường xuyên cũng như hòa vào dòng chảy xã hội, để di tích tồn tại trong cộng đồng dân cư một cách bền vững, lâu dài, phục vụ hữu ích sự nghiệp phát triển toàn diện của địa phương. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 96 IMPRINTS OF LAM SON UPRISING IN LANG CHANH DISTRICT AND THE ISSUE OF PROMOTING ITS VALUES IN TOURISM ACTIVTIES Le Thi Thao, Ph.D Abstract: Lang Chanh is one of the important areas of Lam Son insurgents during their early operation period in the western part of Thanh Hoa province. Here, Lam Son insurgents spent the hardest time fighting Ming troops. With the ingenious leadership of national hero Le Loi, the uprising force was protected safely and strongly grew up. Imprints of Lam Son uprising were deeply preserved in the folk consciousness and became Lang Chanh district’s unique relic system which can be promoted in tourism activities. Key words: Lam Son uprising, promoting the values, tourism activities Người phản biện: PGS.TS. Trần Văn Thức (ngày nhận bài 08/11/2018; ngày gửi phản biện 09/11/2018; ngày duyệt đăng 05/01/2019).
File đính kèm:
- di_tich_ve_cuoc_khoi_nghia_lam_son_tren_dat_lang_chanh_va_va.pdf