Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

Câu 1. Trình bày khái niệm về Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Vì sao nói sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của CMVN?

 Khái niệm Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu cho lợi ích trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,

Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ Nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là khái niệm chỉ hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản đề ra trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam

- Đường lối cách mạng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết của Đảng.

- Đường lối cách mạng của Đảng rất toàn diện và phong phú, bao gồm đường lối đối nội và đường lối đối ngoại được đề ra kể từ khi Đảng ra đời:

+ Có đường lối chính trị chung, xuyên suốt cả quá trình cách mạng như: đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đường lối kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, đường lối đại đoàn kết dân tộc

+ Có đường lối cho từng thời kỳ lịch sử như: đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, đường lối khởi nghĩa giành chính quyền (1939-1945), đường lối cách mạng miền Nam( 1954-1975), đường lối đổi mới từ 1986 đến nay

 + Có đường lối cách mạng vạch ra cho từng lĩnh vực hoạt động như: đường lối công nghiệp hóa, đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đường lối phát triển văn hóa- văn nghệ, đường lối đối ngoại, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế

- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng là thuật ngữ hàm chứa việc Đảng đề ra đường lối và tổ chức quần chúng thực hiện đường lối. Như vậy, trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, việc họach định đường lối là công việc quan trọng hàng đầu.

- Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi giải đáp đúng yêu cầu của xã hội. Nói một cách khác thì thực tiễn là “hòn đá thử vàng” đường lối. Đường lối đúng sẽ tác động tích cực đến thực tiễn và ngược lại, nếu sai lầm sẽ dẫn đến những tổn thất, thậm chí thất bại. Qua đó, đường lối quyết định vị trí, uy tín của Đảng đối với quốc gia dân tộc, tác động đến việc xác nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn dân tộc. Sự đúng, sai của đường lối sẽ dẫn đến sự “thành, bại” của cách mạng, sự “sống còn” của Đảng. Vì vậy, đường lối của Đảng phải được hoạch định trên cơ sở vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trên cơ sở xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới.

 

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 1

Trang 1

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 2

Trang 2

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 3

Trang 3

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 4

Trang 4

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 5

Trang 5

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 6

Trang 6

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 7

Trang 7

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 8

Trang 8

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 9

Trang 9

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

docx 150 trang xuanhieu 7880
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

Đề cương ôn tập môn Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
t cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. 
+ Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể. 
 Với Lào và Campuchia: thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh thần bình đẳng và để bạn phát huy sự tự chủ. 
Với Trung Quốc: Đảng chủ trương thúc đẩy bình thường hóa quan hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt – Trung. 
 Trong quan hệ với khu vực: Đảng chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương; phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và hợp tác. 
 Đối với Hoa Kỳ: Đảng yêu cầu thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. 
+ Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác định: “quan hệ hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới là một đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng”. 
- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại. 
Tóm lại: Đường lối đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội Đảng VI đã được các nghị quyết Trung ương khóa VI, khóa VII phát triển thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. 
* Giai đoạn 1996- đến nay: Giai đoạn bổ sung, phát triển đường lối đối ngoại rộng mở và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. 
- Đại hội lần thứ VIII (tháng 6/1996) và đường lối đối ngoại của Đảng: 
+ Đại hội VIII khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. 
+ Đại hội Đảng VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như sau: 
Thứ nhất: Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN. 
Thứ hai: Không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống. 
Thứ ba: Coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới. 
Thứ tư: Đoàn kết với các nước đang phát triển, với phong trào không liên kết. 
Thứ năm: Tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế. 
+ So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có có các điểm mới: 
Một là: chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác. 
Hai là: quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ. 
Ba là: trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài. 
-	Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội Đảng VIII, nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (12/1997) chỉ rõ: thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài. Chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. 
-	Đại hội lần thứ IX (4/2001) và đường lối đối ngoại của Đảng: 
+ Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhấn mạnh chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Lần đầu tiên Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước” . 
+ Cảm nhận đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển phương châm của Đại hội VII là: “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Chủ trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra tại Đại hội Đảng IX đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới. 
-	Đại hội lần thứ X (4/2006) và đường lối ngoại giao của Đảng: 
+ Đảng nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. 
+ Đồng thời Đảng đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. 
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là chủ động lựa chọn chính sách hội nhập; lựa chọn phương hướng hội nhập đúng; dự báo được những khó khăn và thuận lợi khi tham gia hội nhập. 
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương đổi mới trong nước về mọi mặt để nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế. 
-	Đại hội lần thứ XI(2011) và đường lối đối ngoại: Đại hội XI chủ trương 
+ “Triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại 
+ Chủ động hội nhập quốc tế - nghĩa là không chỉ hội nhập kinh tế như các kỳ Đại hội trước đã xác định mà là hội nhập toàn diện từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, giáo dục, an ninh ,quốc phòng...Điều đó đã chứng tỏ tư tưởng hội nhập mạnh mẽ của Đảng ta. 
Tóm lại: Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế được xác lập trong giai đoạn 1986-1996 đến Đại hội Đảng XI (năm 2011) đã được bổ sung, phát triển thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. 
Kết luận: 
Câu 6. Phân tích một số chủ trương, chính sách lớn của Đảng về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế
Khái niệm:
+ Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là khái niệm chỉ hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản đề ra trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Phân tích:
Các văn kiện của Đảng về chính sách đối ngoại, đặc biệt là nghị quyết của hội nghị Trung ương 4 khóa X (4-2007) đã nêu ra một số chủ trương chính sách lớn về vấn đề hội nhập kinh tế thế giới như sau: 
-	Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững. 
-	Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp. 
-	Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO. 
-	Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước để tạo điều kiện tốt cho sản xuất kinh doanh. 
-	Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế. 
-	Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập. 
-	Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo; có các biện pháp cấm, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường. 
-	Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập. 
-	Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.
Kết luận:
Câu 7. Làm rõ thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân của việc thực hiện đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới
Khái niệm:
+ Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là khái niệm chỉ hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản đề ra trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Phân tích:
* Thành tựu: Hơn 25 năm thực hiện đường lối quan hệ đối ngoại rộng mở, hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại giao nước ta đã đạt được những thành tựu sau đây: 
-	Một là: phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch để tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được điều đó, trước hết, ngoại giao Việt Nam phải giải quyết được vấn đề Campuchia. Từ năm 1979, Mỹ, ASEAN và nhiều nước khác đặt việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia là điều kiện tiên quyết để chấm dứt bao vây, cấm vận. Vì vậy, từ năm 1987 Bộ Chính trị đã thông qua nghị quyết số 2 nhằm xem xét lại chính sách an ninh quốc gia, thay đổi cách giúp để nhân dân Campuchia nhanh chóng tự gánh vác lấy trách nhiệm của họ và sau đó Việt Nam sẽ rút hết quân đội của mình về nước. Nghị quyết Trung Ương lần thứ 13 năm 1988 khẳng định lại quyết tâm đó. Thực hiện đúng cam kết, ngày 26/9/1989 Việt Nam đã rút toàn bộ quân tình nguyện khỏi lãnh thổ Campuchia. Ngày 23/11/1991, sau nhiều nỗ lực của các bên, Hiệp định Pari về một giải pháp toàn diện cho vấn đề Campuchia đã được ký kết. Hiệp định đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và cộng đồng quốc tế; chấm dứt tình trạng bị bao vây, cấm vận. 
-	Hai là: Việt Nam đã bình thường hóa được quan hệ với các nước lớn mà trước đó có xung đột như Trung Quôc, Hoa Kỳ và bắt đầu tham gia quá trình hội nhập quốc tế. 
 + Ngày 5/11/1991, Việt Nam và Trung Quốc ký tuyên bố bình thường hóa quan hệ giữa 2 nước 
+ Ngày 11/7/1995 Việt Nam và Hoa Kỳ ký tuyên bố bình thường hóa quan hệ giữa 2 nước. 
+ Ngày 28/7/1995, Việt Nam ra nhập ASEAN. Sự kiện này đánh dấu sự hội nhập của nước ta với khu vực Đông Nam Á. 
-	Ba là: đã giải quyết một cách hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan. 
+ Đàm phán thành công với Malaixia về giải pháp “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở vùng biển chồng lấn giữa hai nước. 
+ Thu hẹp diện tranh chấp vùng biển với các nước ASEAN. 
+ Ký với Trung Quốc “Hiệp ước về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định phân Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định về hợp tác nghề cá”. 
-	Bốn là: Mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. 
 + Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Tất cả các nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. 
+ Ngày 17/7/1995, Việt Nam ký Hiệp định khung với liên minh châu Âu(EU) 
+ Ký thỏa thuận với Trung Quốc hiệp định quan hệ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (năm 1999). 
 	+ Thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc (52008). 
 	+ Ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (13/7/2001). 
 	+ Ký Tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với Nga (2001). 
 	+ Ký hiệp định quan hệ đối tác tin cậy và ổn định lâu dài với Nhật Bản (2002). 
 + Tổng cộng, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 171 nước trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới. 
 + Tháng 10/2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009 với 183/190 số phiếu ủng hộ. 
- Năm là: tham gia tích cực vào các tổ chức kinh tế quốc tế. 
 + Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); 
 	+ Tháng 7/1995, Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). 
 + Tháng 3/1996, tham gia diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập. 
 + Tháng 11/1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC). 
 + Ngày 11/1/2007, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đã tạo ra hành lang pháp lý cho Việt Nam hội nhập thế giới, khiến Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư, tăng niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. 
-	Sáu là: thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quản lý. 
 + Đến năm 2010, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 74 nước áp dụng quy chế tối huệ quốc; thiết lập và ký kết hiệp định thương mại hai chiều với gần 90 nước và vùng lãnh thổ. 
 + Đã thu hút được khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Năm 2007, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt 20,3 tỉ USD; năm 2008 đạt khoảng 65 tỉ USD. Kim ngạch xuất khẩu năm 1986 chỉ đạt 789 triệu USD thì, năm 2008 đạt 62,9 tỷ USD, năm 2010 ước đạt 71,6 tỷ $ 
 + Việt Nam đã bước đầu tiếp cận những thành tựu khoa học, công nghệ và kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại. 
-	Bảy là: Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh. Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành. 
* Ý nghĩa: Những thành tựu đối ngoại trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển và vị thế đất nước. 
-	Những thành tựu ngoại giao trên đã chứng tỏ sự đúng đắn của Đảng khi đổi mới tư duy ngoại giao khi lấy lợi ích dân tộc chân chính là mục tiêu cao cả nhất. Sự thay đổi tư duy luôn là vấn đề không dễ dàng nhưng chỉ trên cơ sở nhận thức mới đó thì đường lối đổi mới mới được hình thành. 
-	Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, ta đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài kết hợp với các nguồn lực trong nước hình thành lên sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn. 
-	Góp phần giữ vững và củng cố đất nước về mọi phương diện, tạo ra thế và lực mới cho đất nước đi lên. 
-	Góp phần nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quốc tế. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nhận định: “nước ta có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới”. 
* Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới vẫn còn tồn tại những hạn chế sau đây: 
-	Thứ nhất: Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn bị lúng túng, bị động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước. 
-	Thứ hai: Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Cơ chế phối hợp giữa các ngành, nhất là kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn chưa đồng bộ. 
-	Thứ ba: Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết. 
-	Thứ tư: Doanh nghiệp trong nước quy mô nhỏ, yếu kém về quản lý và công nghệ, về vốn nên sức cạnh tranh còn kém. 
-Thứ năm: Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về luật pháp quốc tế nên gặp nhiều khó khăn trong hợp tác. Đây là lỗ hổng về nhân sự cần được bổ sung cho các doanh nghiệp trong tương lai. 
-	Thứ sáu: ‘’Công tác nghiên cứu, dự đoán chiến lược về đối ngoại còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các cơ quan đối ngoại của Đảng, nhà nước , nhân dân và giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế , văn hóa đối ngoại chưa đồng bộ.’’ 
Kết luận: 
---------Hết---------
MỤC LỤC

File đính kèm:

  • docxde_cuong_on_tap_mon_duong_loi_cua_dang_cong_san_viet_nam.docx