Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Lâm nghiệp: Thực trạng và định hướng phát triển
1. ĐẶC ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA NGÀNH LÂM NGHIỆP
1.1. Bối cảnh chung
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế - kỹ thuật bao gồm quản lý, bảo vệ, phát
triển, sử dụng rừng; chế biến và thương mại lâm sản (Nguyễn Bá Ngãi và Nguyễn
Quốc Trị, 2020), có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đảm bảo an
sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Hiện nay, ngành Lâm nghiệp đang quản lý
14,6 triệu ha đất có rừng (trong đó: gần 10,3 triệu ha rừng tự nhiên và gần 4,3 triệu ha
rừng trồng). Tính đến thời điểm 31/12/2019, độ cho phủ của rừng đạt khoảng 41,85%
tính đến thời điểm 31/12/2019 (Bộ NN&PTNT, 2020a). Nếu chỉ tính riêng năm 2019,
cả nước đã trồng được 293.152 ha rừng, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đạt
khoảng 210.000ha tương đương 19,5 triệu m3; sản phẩm lâm sản của Việt Nam được
xuất khẩu sang trên 140 quốc gia với giá trị xuất khẩu đạt 11,2 tỷ USD, tăng 19,2%
so với năm 2018 (Bộ NN&PTNT, 2020b) và cao hơn rất nhiều so với con số xuất
khẩu chỉ đạt 4,1 tỷ USD vào năm 2011.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Lâm nghiệp: Thực trạng và định hướng phát triển
ệ, Kỹ thuật và Chế biến lâm sản, Trường Cao đẳng Cơ điện - Xây dựng và Nông Lâm Trung Bộ, Trường Cao đẳng Công nghệ và Nông Lâm Nam Bộ, Trường Cao đẳng Nông Lâm Đông Bắc, Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ (Nguyễn Bá Ngãi và Nguyễn Quốc Trị, 2020). Thực hiện Nghị quyết số số 26-NQ/TW của Trung ương Đảng , Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP của Chính phủ, Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, Tính đến hết tháng 9/2019, cả nước đã đào tạo được 343.520 lao động học các nghề về lâm sinh, chế biến gỗ. Sau 10 năm triển khai đào tạo nghề lâm nghiệp, lợi nhuận của các hộ gia đình chủ rừng tham gia mô hình hợp tác, liên kết theo chuỗi sản phẩm tăng thêm từ 25 - 30% (Bộ NN&PTNT, 2020c). Ngoài ra, năm 2020 Trường Đại học Lâm nghiệp chính thức được Bộ NN&PTNT giao 04 lớp đào tạo nghề Công nghệ sơ chế gỗ với tổng số 160 học viên. Về công tác đào tạo nghiệp vụ, chỉ tính riêng giai đoạn từ 2011 - 2019, Trường Cán bộ quản lý Nông nghiệp và PTNT I đã bồi dưỡng cho lực lượng Kiểm lâm 5.621 lượt học viên và tham gia bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ thực thi công vụ cho Kiểm lâm các tỉnh do Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh tổ chức (Vũ Thị Bích Thuận, 2020). 2.3.3. Đào tạo bổ túc văn hóa và cán bộ lâm nghiệp có trình độ trung cấp Trường Đại học Lâm nghiệp là đơn vị điển hình về đào tạo nguồn cho cán bộ ngành lâm nghiệp thông qua đào tạo học sinh Hệ phổ thông dân tộc nội trú. Ban Phổ thông dân tộc nội trú nay là Trường Trung học Phổ thông Lâm nghiệp được thành lập theo QĐ số 540/TCLD ngày 28/11/1992 của Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Từ khi chính thức được cấp phép tuyển sinh đến nay, Trường đã đào tạo được 24 khóa với chỉ tiêu tuyển sinh 100 học sinh/năm, tổng số học sinh đã tốt nghiệp trên 200 học sinh thuộc các dân tộc thiểu số các tỉnh phía Bắc. 11 Ở hệ trung cấp, Trường Trung cấp Nông lâm Trung ương là trường đầu tiên được thành lập vào năm 1953 (Nguyễn Văn Đẳng, 2001). Tiếp theo là một hệ thống các trường được thành lập ở các tỉnh dưới sự quản lý của Tổng cục lâm nghiệp. Tính đến năm 1990, các trường trung học chuyên nghiệp đã đào tạo được 17.688 cán bộ trung cấp cho các ngành lâm sinh, khai thác, chế biến gỗ, xây dựng cầu đường, kiến trúc lâm nghiệp, kinh tế lâm nghiệp, trong đó giai đoạn 1961 - 1965 chỉ đào tạo được 230 người, nhưng đến giai đoạn 1966 - 1970, quy mô đào tạo đã tăng 2.300 người cao gấp 10 lần giai đọan trước; giai đoạn 1976 - 1980, đạt cao nhất, đã đào tạo được 4.736 người (Nguyễn Bá Ngãi và Nguyễn Quốc Trị, 2020). 2.3.4. Đào tạo cán bộ lâm nghiệp có trình độ đại học và sau đại học Hệ thống các trường đào tạo cán bộ ngành Lâm nghiệp có trình độ Đại học đánh dấu bằng Nghị định số 147/CP ngày 06/3/1956 về việc thành lập Trường Đại học Nông Lâm (tiền thân của Học viện Nông Lâm). Tính đến năm 1964, Khoa Lâm nghiệp trực thuộc Trường Đại học Nông Lâm đã đào tạo được 05 khóa chính quy với 320 kỹ sư lâm học tốt nghiệp và 02 khóa chuyên tu với 50 kỹ sư tốt nghiệp (Nguyễn Bá Ngãi và Nguyễn Quốc Trị, 2020). Ngày 19/8/1964, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 127 CP về việc thành lập Trường Đại học Lâm nghiệp trên cơ sở của Khoa Lâm học và tổ cơ giới khai thác lâm nghiệp của Trường Đại học Nông Lâm (Trường Đại học Lâm nghiệp, 2019). Trải qua 56 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Lâm nghiệp đã đào tạo được một số lượng đông đảo cán bộ tốt nghiệp có trình độ đại học, cụ thể như sau: - Giai đoạn 1964 - 2004: sau 40 năm đào tạo, Trường Đại học Lâm nghiệp đã đào tạo được trên 14.000 kỹ sư các ngành đào tạo, các hình thức đào tạo. Trong đó, hệ chính quy: 9.743 kỹ sư; hệ tại chức: 3.066 kỹ sư, hệ chuyên tu: 785 kỹ sư; hệ cử tuyển: 664 kỹ sư, với khoảng 10% là con em các dân tộc thiểu số và 142 kỹ sư cho hai nước bạn Lào và Campuchia; 265 thạc sĩ và 18 tiến sĩ. - Giai đoạn 2005 - 2014: Trường đã đào tạo được 14.243 kỹ sư và cử nhân các ngành học; 2.182 học viên; 30 tiến sĩ, 1.522 trung cấp chuyên nghiệp và 476 học sinh dự bị đạo học. Điểm đặc biệt trong giai đoạn này là việc mở mới ngành Quản lý tài nguyên thiên nhiên (Chương trình tiên tiến) với sự hợp tác của Trường đại học Bang Colorado - Hoa Kỳ từ năm học 2010 - 2011, chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh. Đến thời điểm hiện tại đã đào tạo 10 khóa với gần 300 sinh viên tốt nghiệp với trên 10% sinh viên nhận được học bổng đi học ở nước ngoài ngay sau khi tốt nghiệp. - Giai đoạn 2015 đến hết năm 2019: số sinh viên tốt nghiệp đại học là 15.005; cao đẳng là 375; thạc sĩ: 1.546 (hơn ½ số lượng đào tạo thạc sĩ giai đoạn 1995 - 2014) và 51 tiến sĩ (gấp hơn 2 lần so với giai đoạn từ 1995-2014). Tương tự như bậc đại học giai đoạn 2005-2014, từ năm học 2016-2017, Trường đã mở khóa đào tạo Thạc sĩ 12 Lâm nghiệp nghiệt đới với sự hỗ trợ của Cơ quan trao đổi hàn lâm Đức (DAAD), các trường Đại học Goettingen, Dresden, chương trình đào tạo có sự tham gia của học viên đến từ các nước Đông Nam Á và Nam Á. Đến thời điểm hiện tại đã có gần 20 học viên tốt nghiệp. Từ năm 1995, sau nhiều lần tổ chức sắp xếp lại các trường thuộc khối ngành NN&PTNT, đến nay các cơ sở đào tạo nhân lực ngành lâm nghiệp gồm: Trường Đại học Nông lâm Bắc Giang, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Trường Đại học Nông Lâm Huế, Đại học Tây Nguyên, Đại học Tây Bắc, Trường Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Hồng Đức...Cho đến nay, đã có hàng chục nghìn kỹ sư/cử nhân tốt nghiệp các ngành học thuộc lĩnh vực lâm nghiệp ở các cơ sở đào tạo này. Bên cạnh đó, Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam là cơ sở được giao đào tạo cán bộ có trình độ sau đại học thuộc chuyên ngành lâm nghiệp (Quyết định số 333/CT ngày 14/12/1982). Trong giai đoạn từ năm 1982 đến nay, Viện đã đào tạo được 155 tiến sĩ thuộc các lĩnh vực: Lâm sinh, Di truyển và chọn giống cây Lâm nghiệp, Điều tra và quy hoạch rừng, Quản lý tài nguyên rừng, Kỹ thuật chế biến lâm sản; Kỹ thuật máy lâm nghiệp và Đất rừng. 3. THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC 3.1. Thuận lợi - Ngành Lâm nghiệp được xác định là một trong số ngành trọng điểm trong chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ anh ninh quốc gia. - Các cơ sở đào tạo luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao và đầu tư phù hợp cho các lĩnh vực trọng điểm từ Bộ NN&PTNT. - Nội dung chương trình đào tạo, đội ngũ cán bộ giảng dạy ở từng cấp bậc cơ bản đáp ứng được yêu cầu đối mới, nâng cao chất lượng đào tạo. 3.2. Khó khăn - Nguồn nhân công lao động ngành lâm nghiệp chủ yếu là lao động phổ thông, năng suất lao động thấp. Nguồn lao động có chất lượng cao thiếu hụt do đặc thù công việc của ngành Lâm nghiệp và mức thu nhập thấp; - Công tác đào tạo nhân lực ở bậc đại học, sau đại học bị ảnh hưởng của quy chế tuyển sinh và sự phát triển mạnh của các trường đại học với nhiều ngành nghề hấp dẫn; - Chương trình đào tạo, đặc biệt là đào tạo trung cấp, cao đẳng và đại học còn nặng lý thuyết mà chưa chú trọng tới kỹ năng nghề nên người học sau khi ra trường đều phải được các cơ sở đào tạo bổ sung; - Trình độ tiếng Anh của người học sau khi tốt nghiệp rất hạn chế nên khả năng cạnh tranh trong thị trường lao động hội nhập, yêu cầu cao ngày càng khó khăn; - Gắn kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học chưa thực sự như mong đợi; sự tham gia của các doanh nghiệp, các chuyên gia trong công tác đào tạo chưa thực sự được chú trọng. 13 3.3. Cơ hội - Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có nguyên nhân một phần từ mất rừng và suy thoái rừng ngày càng rõ rệt và diễn biến phức tạp nên lĩnh vực lâm nghiệp tiếp tục được chú trọng; đầu tư cho các hoạt động bảo tồn, phát triển tài nguyên rừng có xu hướng tăng lên; - Nhu cầu nguồn nhân lực (đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao) ngày càng tăng cao góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển ngành Lâm nghiệp; mục tiêu chiến lược xuất khẩu gỗ và lâm sản... - Sự phát triển nhanh của các chủ thể trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp làm phát sinh nhu cầu cao về đào tạo lao động. 3.4. Thách thức - Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã thúc đẩy việc dịch chuyển cơ cấu lao động từ lĩnh vực lâm nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ khác; - Đầu tư cho khối ngành kỹ thuật chưa thực sự đáp ứng nhu cầu chuyên môn trong khi yêu cầu về chuẩn đầu ra đặc biệt là kỹ năng thực hành tương đối cao; - Lượng học sinh các trường nghề liên tục giảm sút do tâm lý và cơ hội học đại học của người học cao trong khi các trường đào tạo các ngành học lĩnh vực lâm nghiệp có sức cạnh tranh không cao so với khối ngành khác; - Chất lượng đầu vào của người học của các trường đào tạo khối ngành lâm nghiệp liên tục giảm sút gây khó khăn rất lớn trong việc tổ chức đào tạo để có được sản phẩm đầu ra có chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường. 4. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO NGÀNH LÂM NGHIỆP 4.1. Giải pháp về chính sách - Tập trung xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho ngành lâm nghiệp thông qua các đề án cụ thể và phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0. Trong đó, cần chú trọng đề án đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao gắn với các giải pháp đào tạo cụ thể cho từng lĩnh vực; - Rà soát, quy hoạch lại các trường đào tạo trực thuộc Bộ NN&PTNT làm cơ sở cho việc đầu tư xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp cho từng trường, từng lĩnh vực trọng điểm. Đặc biệt, nghiên cứu thành lập các trường trọng điểm định hướng nghiên cứu, viện nghiên cứu quốc gia về lâm nghiệp nhằm tạo môi trường làm việc tốt nhất thu hút các chuyên gia trong nước và quốc tế đến làm việc; - Triển khai chính sách xã hội hóa hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ngành lâm nghiệp ở các bậc, hệ; xây dựng chính sách phù hợp hỗ trợ và thúc đẩy các hoạt động khởi nghiệp lĩnh vực lâm nghiệp; - Tiến hành tổ chức đào tạo theo cơ chế đặt hàng với các ngành trọng điểm nhu cầu xã hội cao song gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh. Tăng cường đầu tư cho các cơ sở đào tạo về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo. 14 4.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy - Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ giảng dạy các bậc/hệ thông qua các hoạt động trao đổi giảng viên/giáo viên và trao đổi chuyên gia giữa các trường có cùng lĩnh vực đào tạo trong nước và quốc tế; - Tăng cường sự tham gia của các nhà quản lý, chuyên gia, các doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo; - Đẩy mạnh các hoạt động đánh giá giảng viên/giáo viên và kiên quyết loại ra khỏi đội ngũ này những cán bộ không đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định. 4.3. Đổi mới chương trình, cách thức tổ chức đào tạo - Cần tập trung chuẩn hóa chương trình đào tạo các ngành/nghề về kiến thức, kỹ năng phù hợp với chuẩn chương trình đào tạo, đáp ứng nhu cầu thị trường. Trong đó, tăng cường đào tạo kỹ năng nghề; năng lực tiếng Anh, công nghệ thông tin, khởi nghiệp, tự động hóa, quản trị thông minh và chuyển đổi số... - Từng bước đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng chuyên môn sâu gắn với tăng cường kỹ năng nghề, kiến thức cốt lõi, kỹ năng sáng tạo và lộ trình tự động hóa chuỗi hành trình sản xuất lâm nghiệp; - Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo gắn với doanh nghiệp, tổ chức triển khai các học kỳ doanh nghiệp với các ngành học bậc đại học; - Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo; thúc đẩy các hoạt động trao đổi sinh viên với các trường quốc tế có cùng ngành học; - Coi trọng và tạo dựng một bước tiến mới trong công tác đào tạo nghề, đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng năng lực cho cán bộ ngành Lâm nghiệp. Phải xác định rõ, đào tạo ngắn hạn, đào tạo bồi dưỡng nhân lực là loại hình phát triển nguồn nhân lực quan trọng trong chiến lược của Ngành. 4.4. Nâng cấp, bổ sung cơ sở vật chất - Củng cố, tăng cương cơ sở vật chất để các cơ sở đào tạo có đủ điều kiện để tham gia đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu chất lượng lao động và thích ứng với sự phát triển của doanh nghiệp nông nghiệp; - Tăng cường đầu tư và nâng cao chất lượng các trang thiết bị, dụng cụ, máy móc vật tư cho các phòng thực hành, thí nghiệm; xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm trong một số lĩnh vực như công nghệ sinh học, kiểm định vật liệu, giám sát tài nguyên rừng...; - Xã hội hóa các hoạt động đầu tư góp phần thúc đẩy đầu tư của các doanh nghiệp; tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các cơ sở đào tạo. 5. KẾT LUẬN CHUNG Có thể nói, nguồn nhân lực mà đặc biệt là nhân lực có chất lượng cao có vai trò then chốt trong việc vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội để từ đó thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển ngành Lâm nghiệp. Có nhiều cách tiếp cận, nhiều giải pháp được đưa ra với từng đối tượng, từng cơ sở đào tạo. Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian và nguồn lực triển khai thu thập thông tin nên bài viết này chỉ tập trung 15 đánh giá sơ bộ dựa trên các tài liệu tham khảo thu thập được từ các nguồn khác nhau đã được công bố, các đề xuất chính vì vậy chỉ mang tính chất gợi mở cho việc đề xuất các giải pháp cụ thể hơn trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 18/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020. 2. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 về việc Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. 3. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1956/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020. 4. Bộ NN&PTNT (2020a), Quyết định Công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2019. 5. Bộ NN&PTNT (2020b), Báo cáo Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành Lâm nghiệp năm 2020. 6. Bộ NN&PTNT (2020c), Báo cáo kết quả 10 năm công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn. 7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2013), Quyết định số 1565/QĐ- BNN-TCLN của Bộ NN&PTNT về phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp. 8. Trường Đại học Lâm nghiệp (2019), Trường Đại học Lâm nghiệp: 55 năm xây dựng và phát triển (1964-1999). 9. Trần Quang Bảo (2014), Báo cáo đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành Lâm nghiệp, Hội thảo phát triển ngành Lâm nghiệp tại Đà Nẵng. 10. Nguyễn Văn Đẳng (2001), Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 11. Nguyễn Quốc Trị và Nguyễn Bá Ngãi (2020), Lâm nghiệp Việt Nam: 75 năm hình thành và phát triển (1945-2020) (Bản dự thảo). 12. Trần Văn Chứ (2019), Ngành gỗ đang thiếu trầm trọng lao động có trình độ cao (https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/nganh-go-dang-thieu-tram-trong-lao- dong-co-trinh-do-cao-20190222192020745.htm). 13. Vũ Thị Bích Thuận( 2020), Đào tạo, bồi đưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Lâm nghiệp. 16
File đính kèm:
- dao_tao_nguon_nhan_luc_cho_nganh_lam_nghiep_thuc_trang_va_di.pdf