Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)
TÓM TẮT
Tháng 3/2019 Bộ Tài Chính đã chính thức ban hành Đề án “Áp dụng chuẩn
mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam”. Trong tương lai gần, Chuẩn
mực kế toán Việt Nam sẽ phải ban hành lại, ban hành mới theo hướng hội tụ
với IFRS. Khi khung pháp lý về kế toán thay đổi, nhu cầu xã hội về nguồn lực
kế toán cũng phải thay đổi, đương nhiên các cơ sở giáo dục cũng phải thay
đổi để đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, việc thay đổi không hề
đơn giản, cũng không phải ngày một ngày hai, mà cũng cần phải có lộ trình
để từng bước tháo gỡ khó khăn và sớm bắt kịp với yêu cầu trong giai đoạn
mới. Bài viết này tác giả trình bày 2 vấn đề lớn: (1) Tác giả tổng hợp từ các
nghiên cứu trước và trình bày có hệ thống lại thực trạng trong công tác đào
tạo kế toán ở các trường đại học tại Việt Nam hiện nay; (2) Trên cơ sở các
thực trạng đã trình bày, tác giả phân tích, đánh giá và đưa ra các khuyến
nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn cho các trường đại học tại Việt Nam
trong đào tạo kế toán nhằm đáp ứng nhu cầu trong giai đoạn mới - giai đoạn
hội tụ VAS và IFRS.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)
ội ngũ giảng viên - Ít kinh nghiệm thực tế. - Hạn chế trình độ ngoại ngữ. Phương pháp giảng dạy - Còn nặng tính truyền thống thầy giảng trò nghe. - Còn hạn chế các buổi thảo luận, thuyết AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 52 trình, tổ chức nhóm. - Phương pháp dạy các môn kế toán chủ yếu bám sát chế độ kế toán, ít giải quyết tình huống cụ thể, chưa chú trọng giảng dạy nguyên tắc, chưa phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của sinh viên. Phương pháp đánh giá - Nội dung các bài đánh giá còn mang nặng tính rập khuôn, máy móc, ít đưa tình huống thực tế vào. - Việc kiểm soát tình trạng gian lận của sinh viên trong kiểm tra thi cử còn khó khăn. Trên cơ sở những khó khăn nêu trên, bằng nhận thức và kinh nghiệm giảng dạy hơn 10 năm của bản thân, tác giả suy luận logic và đưa ra các giải pháp khắc phục những khó khăn và tồn tại đã nêu như sau: Thứ nhất về chương trình đào tạo: Các trường đại học đầu ngành trong nước nên là những “cánh chim đầu đàn” trong việc tham chiếu CTĐT kế toán tại các trường ĐH ở các nước phát triển trên thế giới đã áp dụng IFRS và các tổ chức nghề nghiệp uy tín để hội tụ cao nhất nội dung chương trình đào tạo với các trường, các tổ chức này. Các trường đại học địa phương còn nhiều hạn chế về nguồn lực thì việc xây dựng CTĐTcũng cần tham khảo, học tập các trường ĐH đầu ngành trong nước để từng bước chuyển đổi theo xu hướng hội nhập. Đặc biệt là việc đưa nội dung IFRS vào giảng dạy nên học tập các trường đã tiên phong thực hiện, tiêu biểu như ĐH Kinh tế TP.HCM với hàm lượng nội dung IFRS được đưa vào giảng dạy trong môn Kế toán quốc tế nhiều nhất (Nguyễn Xuân Hưng, 2017). Cụ thể hơn, các trường cần rà soát, đánh giá CTĐT để giảm thời lượng những môn học nặng lý thuyết, tăng thời lượng các môn thực hành. Rà soát, đánh giá đề cương chi tiết để giảm nội dung lý thuyết và tăng tình huống thực tế; đối chiếu giữa các đề cương chi tiết để loại bỏ các kiến thức bị trùng lắp; sắp xếp các môn học theo trình tự tăng dần độ khó. Đối với việc đưa nội dung IFRS vào giảng dạy nên được thực hiện từng bước với mức độ tiếp cận được nâng cao dần qua các năm để bản thân các giảng viên cũng cần có thời gian để nghiên cứu, biên soạn tài liệu. Việc đánh giá CTĐT và đề cương chi tiết nên mời các chuyên gia là giảng viên ngoài trường có học hàm học vị cao; các kế toán viên, kiểm toán viên có bề dày kinh nghiệm đang làm việc tại các doanh nghiệp để việc đánh giá được khách quan và đảm bảo chương trình đạo tạo đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn. Bên cạnh đó, các trường nên giảm thời gian đi thực tập, thực tế tại các doanh nghiệp thay vào đó là xây dựng phòng kế toán mô phỏng để sinh viên có cơ hội thực hành nghề nghiệp mà việc đi thực tập gần như không được tiếp cận như: lập chứng từ, lập báo cáo tài chính và rèn luyện các kỹ năng ứng dụng nghề nghiệp như kỹ năng sử dụng các thiết bị văn phòng, phần mềm kế toán Mô hình phòng kế toán mô phỏng hiện nay đã được một số trường áp dụng điển hình như ĐH Bình Dương. Thứ hai về tài liệu giảng dạy, nghiên cứu: Các tài liệu giảng dạy thay vì biên soạn dựa trên cơ sở bám sát chế độ kế toán thì nên biên soạn dựa trên cơ sở bám sát chuẩn mực kế toán. Vì chế độ kế toán được trình bày rất cụ thể cho từng nghiệp vụ phát sinh, như vậy người học chỉ cần đọc chế độ kế toán là có thể nắm được phương pháp hạch toán cho từng nghiệp vụ. Nhưng chuẩn mực kế toán mang tính hướng dẫn chung, tôn AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 53 trọng bản chất hơn nên khi soạn tài liệu dựa trên chuẩn mực giúp người học phát huy khả năng tư duy, sáng tạo, tăng khả năng xét đoán nghề nghiệp nên có thể giải quyết tình huống trong thực tế tốt hơn. Các tài liệu tham khảo các trường nên bổ sung thêm các đầu sách nước ngoài viết bằng tiếng Anh vào kho tàng Thư viện. Để giảng viên và sinh viên có nhu cầu và có cơ hội mở rộng kiến thức và rèn luyện thêm về ngoại ngữ. Tổ chức các buổi tập huấn cho giảng viên và sinh viên khai thác dữ liệu mở trên ineternet. Đối với tài liệu IFRS, để khắc phục tình trạng khan hiếm tài liệu thì việc khai thác trên các website là rất cần thiết. Theo đó, một số trang web tiêu biểu có thể khai thác tài liệu kế toán nói chung và tài liệu IFRS nói riêng điển hình như sau: 1 Trang web của EU 2 Trang web của Hiệp Hội kế toán Mỹ https://commons.aaahq.org/signin 3 Trang web của công ty kiểm toán Deloitte www.deloitte.com/us/ifrs/consortium; www.IASPlus.com 4 Trang web của công công ty kiểm toán KPMG standards.html 5 Trang web của công ty Ernst & Young (Nguyễn Thị Thu Hiền, Phạm Tú Anh, Trần Thị Quỳnh Hương, 2017) Thứ ba về đội ngũ giảng viên (GV): Nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tế việc đầu tiên là các GV phải tự tìm tòi nghiên cứu và học hỏi. Bên cạnh đó, các trường cũng cần tạo các mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp, các tổ chức nghề nghiệp trong và ngoài nước nhằm tăng cường tổ chức các buổi giao lưu, tọa đàm, các hội thảo trong nước và quốc tế về lĩnh vực kế toán tài chính. Qua các buổi tọa đàm, hội thảo đó sẽ giúp các GV tích lũy thêm nhiều kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tế và nâng cao trình độ ngoại ngữ. Đặc biệt là liên quan đến vấn đề hội tụ VAS với IFRS, GV ở các trường đại học địa phương cần thiết được tổ chức tập huấn, trao đổi với các chuyên gia là các GV ở các trường ĐH đầu ngành, hoặc các kế toán, kiểm toán viên tại các công ty lớn, các tổ chức nghề nghiệp trong và ngoài nước để có định hướng rõ hơn trong việc đưa nội dung này vào giảng dạy theo lộ trình phù hợp. Ngoài ra, các AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 54 trường nên hạn chế mời GV thỉnh giảng vì phải phụ thuộc lịch của GV thỉnh giảng, phải dạy cuốn chiếu gấp rút hoặc đảo lộn trật tự môn học không theo thứ tự trước sau như CTĐT, làm ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo. Để đảm bảo có một đội ngũ GV đủ về số lượng và đạt về chất lượng, các trường nên có chính sách đãi ngộ tốt để giữ được các GV có thâm niên và thu hút giảng viên có trình độ và kinh nghiệm thực tế về giảng dạy. Thứ tư về phương pháp giảng dạy Mặc dù có rất nhiều phương pháp giảng dạy được áp dụng trong thực tế, nhưng hầu hết các nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng phương pháp sử dụng tình huống thực tế là tốt hơn hết, điển hình như nghiên cứu của: Carslaw & Purvis (2007); Henry, Lin &Yang (2007); James (2011) (Nguyễn Thị Thu Hiền, Phạm Tú Anh & Trần Thị Quỳnh Hương, 2017). Bên cạnh đó trong một cuộc khảo sát thực tế của Công ty kiểm toán KPMG và Hội đồng giáo dục của Hiệp hội Kế toán Mỹ đã chỉ ra rằng có 76% những người tham gia trả lời câu hỏi ủng hộ việc sử dụng bài tập tình huống là nguồn tài liệu cần thiết cho việc giảng dạy IFRS (Munter & Reckers, 2009). Theo đó, để chuẩn bị cho việc đào tạo ra các kế toán, kiểm toán viên có khả năng áp dụng IFRS trong thực tế thì việc các cơ sở đào tạo cần thay đổi phương pháp dạy từ truyền thống sang phương pháp dạy tích cực là rất cần thiết. Phương pháp dạy tích cực trong đó người dạy chỉ là người hướng dẫn, cố vấn còn người học đóng vai trò chủ đạo tự tìm tòi, nghiên cứu là chính. Cụ thể kiến thức sẵn có trong giáo trình hoặc tài liệu giảng dạy GV có thể hướng dẫn dưới dạng các câu hỏi, hoặc sơ đồ tư duy, tóm tắt nội dung chính cần nắm để sinh viên tự đọc, tự nghiên cứu. Như vậy thời gian trên lớp chủ yếu GV nên hướng dẫn sinh viên vận dụng kiến thức lý thuyết đã tự chuẩn bị để vận dụng giải quyết bài tập thực hành, đặc biệt đưa thêm các tình huống thực tế để sinh viên thảo luận, trình bày, nhằm tăng khả năng tư duy và rèn luyện các kỹ năng mềm cho sinh viên như thuyết trình, làm việc nhóm Muốn vậy, trong việc sắp xếp lớp học các trường cần cho sinh viên đăng ký khoảng 20 - 30 sinh viên/ nhóm. Có như thế, việc thực hiện các tình huống thực tế, các bài tập nhóm mới được hầu hết các sinh viên được tham gia trình bày, và giảng viên cũng có thể kiểm soát lớp/nhóm học được tốt hơn. Bên cạnh đó, nên phân loại theo học lực sinh viên nhóm khá giỏi riêng, nhóm yếu và trung bình riêng, thì việc GV lựa chọn phương pháp dạy cho từng nhóm đối tượng sẽ thuận lợi hơn. Đặc biệt, trong việc dạy nội dung các môn chuyên ngành kế toán tài chính, các GV nên chú trọng giảng dạy kế toán theo phương pháp dựa trên các nguyên tắc, tăng khả năng phán xét, suy luận bản chất vấn đề, chú trọng các khái niệm cơ bản thay vì các quy định cụ thể. Có như vậy sinh viên mới dần thích nghi với quy định mới của kế toán khi mà VAS hội tụ với IFRS. Thứ năm về phương pháp đánh giá sinh viên: Do phương pháp giảng dạy nên thay đổi theo hướng tích cực lấy người học làm trung tâm, vì vậy phương pháp đánh giá sinh viên cũng không thể không thay đổi. Theo đó, nội dung các bài kiểm tra, thi nên giảm kiến thức dạng vận dụng lý thuyết và tăng kiến thức dạng tư duy, suy luận. Ngoài ra cũng cần cân đối lại số bài kiểm tra đánh giá được sử dụng tài liệu và không sử dụng tài liệu làm sao để đảm bảo vừa đánh giá được khả năng ghi nhớ, vận dụng kiến thức đồng thời đánh giá được khả năng tư duy, sáng tạo của sinh viên, nhất là có thể đánh giá khả năng tìm kiếm, chọn lọc và xử lý thông tin của sinh viên trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Riêng các môn Kế toán tài chính trong các bài kiểm tra và thi nên thay đổi theo hướng tăng hàm lượng kiến thức dạng suy luận bản chất vấn đề và xét đoán nghề nghiệp và giảm các câu hỏi định khoản kế toán. Đặc biệt, các trường nên xây dựng ngân hàng câu hỏi thi cho các môn học, bộ phận chọn đề thi độc lập với giảng viên trực tiếp giảng dạy để hạn chế “dạy tủ, học tủ”. Trong việc giám sát sinh viên kiểm tra, thi cử, các trường nên cân nhắc giữa việc lắp đặt camera với việc bố trí nhiều nhận sự tham gia để đạt hiệu quả cao nhất. AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 55 4. KẾT LUẬN Đề án áp dụng IFRS vào Việt Nam có diễn ra đúng như lộ trình mà Bộ Tài Chính đề vạch ra hay không phụ thuộc một phần không nhỏ vào công tác đào tạo tại các Trường Đại học ở Việt Nam trong thời gian tới. Như tác giả đã trình bày ở phần đặt vấn đề, VAS mới sẽ được bắt đầu có hiệu lực từ 2022, thời gian là rất cận kề và gấp rút. Do đó, các cơ sở đào tạo mà chủ yếu là các trường đại học nơi đào tạo ra các kế toán viên cần nhanh chóng nghiên cứu, triển khai và đưa nội dung IFRS vào giảng dạy càng sớm càng tốt. Tuy nhiên đưa những nội dung nào, mức độ bao nhiêu, tiếp cận như thế nào thì mỗi trường cần nghiên cứu thiết kế để phù hợp nhất với điều kiện hoàn cảnh riêng của mình. Đặc biệt, các trường cần đánh giá lại các vấn đề liên quan đến công tác đào tạo kế toán như: CTĐT, đề cương chi tiết, đội ngũ giảng viên, phương pháp giảng dạy, đánh giá, giáo trình tài liệu để khắc phục những mặt hạn chế; từ đó góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo ngành Kế toán để có thể đáp ứng nhu cầu hội nhập. Tính mới của nghiên cứu là trình bày một cách có hệ thống thực trạng và giải pháp tháo gỡ khó khăn trong công tác đào tạo kế toán ở các trường đại học tại Việt Nam theo các nhóm yếu tố quan trọng. Trong khi hầu hết các nghiên cứu tương tự trước đây chỉ trình bày chung, chưa có sự phân phân loại này, hoặc nếu có cũng chưa đầy đủ các nhóm yếu tố này. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài vừa cung cấp cơ sở lý thuyết cho các nghiên cứu tiếp theo nghiên cứu về đào tạo kế toán tại Việt Nam. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cung cấp các giải pháp giúp cho các sinh viên, giảng viên và các nhà quản lý giáo dục trong việc nâng cao chất lượng dạy và học chuyên ngành kế toán nói riêng và trong nâng cao chất lượng đào tạo nói chung ở các trường đại học tại Việt Nam. Đặc biệt, trong giai đoạn cấp bách như hiện nay thì nghiên cứu góp thêm phần thúc đẩy tinh thần cho người học, người dạy và cả những nhà quản lý giáo dục trong việc sẵn sàng tiếp nhận thử thách là phải từng bước đổi mới để dạy và học kế toán theo chuẩn quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Tài Chính. (2019). Đề án “Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam”. Hà Nội: Bộ Tài Chính. Đào Thị Đài Trang. (2018). Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành kế toán trong các trường đại học ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu câu hội nhập. Truy cập tại vn/132/2780 Munter, P. & Reckers PM. (2009). IFRS and Collegiate Accounting Curricula in the United States: 2008 A Survey of the Current State of Education Conducted by KPMG and the Education Committee of the American Accounting Association. Issues in Accounting Education, 2, 131-139. Nguyễn Hữu Ánh. (Tháng 6, 2017). Đổi mới đào tạo ngành kế toán của các trường đại học của Việt Nam đáp ứng yêu cầu xã hội trong xu thế hội nhập. Bài viết được trình bày tại hội thảo Đổi mới phương pháp đào tạo, cập nhật giáo trình giảng dạy kế toán phù hợp với yêu cầu cải cách kế toán trong giai đoạn mới, Hồ Chí Minh, Việt Nam. Nguyễn Thị Thu Hiền., Phạm Tú Anh., & Trần Thị Quỳnh Hương. (Tháng 6, 2017). Một số thay đổi cần thiết trong việc đào tạo kế toán tại các trường đại học Việt Nam dưới sự tác động của việc chuyển đổi sang IFRS Bài viết được trình bày tại hội thảo Đổi mới phương pháp đào tạo, cập nhật giáo trình giảng dạy kế toán phù hợp với yêu cầu cải cách kế toán trong giai đoạn mới, Hồ Chí Minh, Việt Nam. Nguyễn Xuân Hưng. (Tháng 6, 2017). Định hướng đào tạo kế toán tại Việt Nam trong quá trình hội nhập chuẩn mực lập báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Bài viết được trình bày tại Hội thảo Đổi mới phương pháp đào tạo, cập nhật giáo trình giảng dạy kế toán phù hợp với AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 56 yêu cầu cải cách kế toán trong giai đoạn mới, Hồ Chí Minh, Việt Nam. Phan Thanh Hải., & Nguyễn Phi Sơn. (2016). Đào tạo nhân lực cho ngành kiểm toán độc lập của Việt Nam trong các trường đại học – Cơ hội và thách thức khi gia nhập TPP, AEC. Bài viết được trình bày tại Hội thảo 20 năm thành lập Hội Kế toán - Kiểm toán Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. Trung tâm Dự báo Nhu cầu nhân lực và Thông tin Thị trường lao động TP.HCM. (2018). Báo cáo phân tích thị trường lao động năm 2018 dự báo nhu cầu nhân lực năm 2019 tại TP. Hồ Chí Minh (Số 411). Truy cập từ: tuc/7617.thi-truong-lao-dong-nam-2018-du- bao-nhu-cau-nhan-luc-nam-2019-tai-thanh- pho-ho-chi-minh.html Vụ Chế Độ Kế toán và Kiểm toán. (2017). Phát triển và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về Chuẩn mực Báo cáo tài chính tại Việt Nam. Bài viết được trình bày tại Hội thảo Đổi mới phương pháp đào tạo, cập nhật giáo trình giảng dạy kế toán phù hợp với yêu cầu cải cách kế toán trong giai đoạn mới, Hồ Chí Minh, Việt Nam.
File đính kèm:
- dao_tao_ke_toan_tai_cac_truong_dai_hoc_o_viet_nam_giai_doan.pdf