Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)

TÓM TẮT

Tháng 3/2019 Bộ Tài Chính đã chính thức ban hành Đề án “Áp dụng chuẩn

mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam”. Trong tương lai gần, Chuẩn

mực kế toán Việt Nam sẽ phải ban hành lại, ban hành mới theo hướng hội tụ

với IFRS. Khi khung pháp lý về kế toán thay đổi, nhu cầu xã hội về nguồn lực

kế toán cũng phải thay đổi, đương nhiên các cơ sở giáo dục cũng phải thay

đổi để đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, việc thay đổi không hề

đơn giản, cũng không phải ngày một ngày hai, mà cũng cần phải có lộ trình

để từng bước tháo gỡ khó khăn và sớm bắt kịp với yêu cầu trong giai đoạn

mới. Bài viết này tác giả trình bày 2 vấn đề lớn: (1) Tác giả tổng hợp từ các

nghiên cứu trước và trình bày có hệ thống lại thực trạng trong công tác đào

tạo kế toán ở các trường đại học tại Việt Nam hiện nay; (2) Trên cơ sở các

thực trạng đã trình bày, tác giả phân tích, đánh giá và đưa ra các khuyến

nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn cho các trường đại học tại Việt Nam

trong đào tạo kế toán nhằm đáp ứng nhu cầu trong giai đoạn mới - giai đoạn

hội tụ VAS và IFRS.

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 1

Trang 1

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 2

Trang 2

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 3

Trang 3

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 4

Trang 4

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 5

Trang 5

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 6

Trang 6

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 7

Trang 7

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 8

Trang 8

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 9

Trang 9

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS) trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 15580
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)

Đào tạo kế toán tại các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hội tụ chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế  (IFRS)
ội ngũ giảng viên - Ít kinh nghiệm thực tế. 
- Hạn chế trình độ ngoại ngữ. 
Phương pháp giảng dạy - Còn nặng tính truyền thống thầy giảng trò 
nghe. 
- Còn hạn chế các buổi thảo luận, thuyết 
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 
52 
trình, tổ chức nhóm. 
- Phương pháp dạy các môn kế toán chủ 
yếu bám sát chế độ kế toán, ít giải quyết tình 
huống cụ thể, chưa chú trọng giảng dạy nguyên 
tắc, chưa phát huy được khả năng tư duy, sáng 
tạo của sinh viên. 
Phương pháp đánh giá - Nội dung các bài đánh giá còn mang nặng 
tính rập khuôn, máy móc, ít đưa tình huống thực 
tế vào. 
- Việc kiểm soát tình trạng gian lận của sinh 
viên trong kiểm tra thi cử còn khó khăn. 
Trên cơ sở những khó khăn nêu trên, bằng nhận 
thức và kinh nghiệm giảng dạy hơn 10 năm của 
bản thân, tác giả suy luận logic và đưa ra các giải 
pháp khắc phục những khó khăn và tồn tại đã nêu 
như sau: 
Thứ nhất về chương trình đào tạo: 
Các trường đại học đầu ngành trong nước nên là 
những “cánh chim đầu đàn” trong việc tham chiếu 
CTĐT kế toán tại các trường ĐH ở các nước phát 
triển trên thế giới đã áp dụng IFRS và các tổ chức 
nghề nghiệp uy tín để hội tụ cao nhất nội dung 
chương trình đào tạo với các trường, các tổ chức 
này. Các trường đại học địa phương còn nhiều hạn 
chế về nguồn lực thì việc xây dựng CTĐTcũng 
cần tham khảo, học tập các trường ĐH đầu ngành 
trong nước để từng bước chuyển đổi theo xu 
hướng hội nhập. Đặc biệt là việc đưa nội dung 
IFRS vào giảng dạy nên học tập các trường đã 
tiên phong thực hiện, tiêu biểu như ĐH Kinh tế 
TP.HCM với hàm lượng nội dung IFRS được đưa 
vào giảng dạy trong môn Kế toán quốc tế nhiều 
nhất (Nguyễn Xuân Hưng, 2017). 
Cụ thể hơn, các trường cần rà soát, đánh giá 
CTĐT để giảm thời lượng những môn học nặng lý 
thuyết, tăng thời lượng các môn thực hành. Rà 
soát, đánh giá đề cương chi tiết để giảm nội dung 
lý thuyết và tăng tình huống thực tế; đối chiếu 
giữa các đề cương chi tiết để loại bỏ các kiến thức 
bị trùng lắp; sắp xếp các môn học theo trình tự 
tăng dần độ khó. Đối với việc đưa nội dung IFRS 
vào giảng dạy nên được thực hiện từng bước với 
mức độ tiếp cận được nâng cao dần qua các năm 
để bản thân các giảng viên cũng cần có thời gian 
để nghiên cứu, biên soạn tài liệu. Việc đánh giá 
CTĐT và đề cương chi tiết nên mời các chuyên 
gia là giảng viên ngoài trường có học hàm học vị 
cao; các kế toán viên, kiểm toán viên có bề dày 
kinh nghiệm đang làm việc tại các doanh nghiệp 
để việc đánh giá được khách quan và đảm bảo 
chương trình đạo tạo đáp ứng được với yêu cầu 
thực tiễn. Bên cạnh đó, các trường nên giảm thời 
gian đi thực tập, thực tế tại các doanh nghiệp thay 
vào đó là xây dựng phòng kế toán mô phỏng để 
sinh viên có cơ hội thực hành nghề nghiệp mà 
việc đi thực tập gần như không được tiếp cận như: 
lập chứng từ, lập báo cáo tài chính và rèn luyện 
các kỹ năng ứng dụng nghề nghiệp như kỹ năng 
sử dụng các thiết bị văn phòng, phần mềm kế 
toán Mô hình phòng kế toán mô phỏng hiện nay 
đã được một số trường áp dụng điển hình như ĐH 
Bình Dương. 
Thứ hai về tài liệu giảng dạy, nghiên cứu: 
Các tài liệu giảng dạy thay vì biên soạn dựa trên 
cơ sở bám sát chế độ kế toán thì nên biên soạn 
dựa trên cơ sở bám sát chuẩn mực kế toán. Vì chế 
độ kế toán được trình bày rất cụ thể cho từng 
nghiệp vụ phát sinh, như vậy người học chỉ cần 
đọc chế độ kế toán là có thể nắm được phương 
pháp hạch toán cho từng nghiệp vụ. Nhưng chuẩn 
mực kế toán mang tính hướng dẫn chung, tôn 
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 
53 
trọng bản chất hơn nên khi soạn tài liệu dựa trên 
chuẩn mực giúp người học phát huy khả năng tư 
duy, sáng tạo, tăng khả năng xét đoán nghề nghiệp 
nên có thể giải quyết tình huống trong thực tế tốt 
hơn. 
Các tài liệu tham khảo các trường nên bổ sung 
thêm các đầu sách nước ngoài viết bằng tiếng Anh 
vào kho tàng Thư viện. Để giảng viên và sinh viên 
có nhu cầu và có cơ hội mở rộng kiến thức và rèn 
luyện thêm về ngoại ngữ. Tổ chức các buổi tập 
huấn cho giảng viên và sinh viên khai thác dữ liệu 
mở trên ineternet. Đối với tài liệu IFRS, để khắc 
phục tình trạng khan hiếm tài liệu thì việc khai 
thác trên các website là rất cần thiết. Theo đó, một 
số trang web tiêu biểu có thể khai thác tài liệu kế 
toán nói chung và tài liệu IFRS nói riêng điển 
hình như sau: 
1 
Trang web 
của EU 
2 
Trang web 
của Hiệp 
Hội kế 
toán Mỹ 
https://commons.aaahq.org/signin 
3 
Trang web 
của công ty 
kiểm toán 
Deloitte 
www.deloitte.com/us/ifrs/consortium; 
www.IASPlus.com 
4 
Trang web 
của công 
công ty 
kiểm toán 
KPMG 
standards.html 
5 
Trang web 
của công ty 
Ernst & 
Young 
(Nguyễn Thị Thu Hiền, Phạm Tú Anh, Trần Thị Quỳnh Hương, 2017) 
Thứ ba về đội ngũ giảng viên (GV): 
Nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, kinh 
nghiệm thực tế việc đầu tiên là các GV phải tự tìm 
tòi nghiên cứu và học hỏi. Bên cạnh đó, các 
trường cũng cần tạo các mối quan hệ tốt với các 
doanh nghiệp, các tổ chức nghề nghiệp trong và 
ngoài nước nhằm tăng cường tổ chức các buổi 
giao lưu, tọa đàm, các hội thảo trong nước và 
quốc tế về lĩnh vực kế toán tài chính. Qua các 
buổi tọa đàm, hội thảo đó sẽ giúp các GV tích lũy 
thêm nhiều kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm 
thực tế và nâng cao trình độ ngoại ngữ. Đặc biệt là 
liên quan đến vấn đề hội tụ VAS với IFRS, GV ở 
các trường đại học địa phương cần thiết được tổ 
chức tập huấn, trao đổi với các chuyên gia là các 
GV ở các trường ĐH đầu ngành, hoặc các kế toán, 
kiểm toán viên tại các công ty lớn, các tổ chức 
nghề nghiệp trong và ngoài nước để có định 
hướng rõ hơn trong việc đưa nội dung này vào 
giảng dạy theo lộ trình phù hợp. Ngoài ra, các 
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 
54 
trường nên hạn chế mời GV thỉnh giảng vì phải 
phụ thuộc lịch của GV thỉnh giảng, phải dạy cuốn 
chiếu gấp rút hoặc đảo lộn trật tự môn học không 
theo thứ tự trước sau như CTĐT, làm ảnh hưởng 
tới chất lượng đào tạo. Để đảm bảo có một đội 
ngũ GV đủ về số lượng và đạt về chất lượng, các 
trường nên có chính sách đãi ngộ tốt để giữ được 
các GV có thâm niên và thu hút giảng viên có 
trình độ và kinh nghiệm thực tế về giảng dạy. 
Thứ tư về phương pháp giảng dạy 
Mặc dù có rất nhiều phương pháp giảng dạy được 
áp dụng trong thực tế, nhưng hầu hết các nghiên 
cứu trên thế giới đều cho rằng phương pháp sử 
dụng tình huống thực tế là tốt hơn hết, điển hình 
như nghiên cứu của: Carslaw & Purvis (2007); 
Henry, Lin &Yang (2007); James (2011) 
(Nguyễn Thị Thu Hiền, Phạm Tú Anh & Trần Thị 
Quỳnh Hương, 2017). Bên cạnh đó trong một 
cuộc khảo sát thực tế của Công ty kiểm toán 
KPMG và Hội đồng giáo dục của Hiệp hội Kế 
toán Mỹ đã chỉ ra rằng có 76% những người tham 
gia trả lời câu hỏi ủng hộ việc sử dụng bài tập tình 
huống là nguồn tài liệu cần thiết cho việc giảng 
dạy IFRS (Munter & Reckers, 2009). 
Theo đó, để chuẩn bị cho việc đào tạo ra các kế 
toán, kiểm toán viên có khả năng áp dụng IFRS 
trong thực tế thì việc các cơ sở đào tạo cần thay 
đổi phương pháp dạy từ truyền thống sang 
phương pháp dạy tích cực là rất cần thiết. Phương 
pháp dạy tích cực trong đó người dạy chỉ là người 
hướng dẫn, cố vấn còn người học đóng vai trò chủ 
đạo tự tìm tòi, nghiên cứu là chính. Cụ thể kiến 
thức sẵn có trong giáo trình hoặc tài liệu giảng 
dạy GV có thể hướng dẫn dưới dạng các câu hỏi, 
hoặc sơ đồ tư duy, tóm tắt nội dung chính cần 
nắm để sinh viên tự đọc, tự nghiên cứu. Như vậy 
thời gian trên lớp chủ yếu GV nên hướng dẫn sinh 
viên vận dụng kiến thức lý thuyết đã tự chuẩn bị 
để vận dụng giải quyết bài tập thực hành, đặc biệt 
đưa thêm các tình huống thực tế để sinh viên thảo 
luận, trình bày, nhằm tăng khả năng tư duy và rèn 
luyện các kỹ năng mềm cho sinh viên như thuyết 
trình, làm việc nhóm Muốn vậy, trong việc sắp 
xếp lớp học các trường cần cho sinh viên đăng ký 
khoảng 20 - 30 sinh viên/ nhóm. Có như thế, việc 
thực hiện các tình huống thực tế, các bài tập nhóm 
mới được hầu hết các sinh viên được tham gia 
trình bày, và giảng viên cũng có thể kiểm soát 
lớp/nhóm học được tốt hơn. Bên cạnh đó, nên 
phân loại theo học lực sinh viên nhóm khá giỏi 
riêng, nhóm yếu và trung bình riêng, thì việc GV 
lựa chọn phương pháp dạy cho từng nhóm đối 
tượng sẽ thuận lợi hơn. Đặc biệt, trong việc dạy 
nội dung các môn chuyên ngành kế toán tài chính, 
các GV nên chú trọng giảng dạy kế toán theo 
phương pháp dựa trên các nguyên tắc, tăng khả 
năng phán xét, suy luận bản chất vấn đề, chú 
trọng các khái niệm cơ bản thay vì các quy định 
cụ thể. Có như vậy sinh viên mới dần thích nghi 
với quy định mới của kế toán khi mà VAS hội tụ 
với IFRS. 
Thứ năm về phương pháp đánh giá sinh viên: 
Do phương pháp giảng dạy nên thay đổi theo 
hướng tích cực lấy người học làm trung tâm, vì 
vậy phương pháp đánh giá sinh viên cũng không 
thể không thay đổi. Theo đó, nội dung các bài 
kiểm tra, thi nên giảm kiến thức dạng vận dụng lý 
thuyết và tăng kiến thức dạng tư duy, suy luận. 
Ngoài ra cũng cần cân đối lại số bài kiểm tra đánh 
giá được sử dụng tài liệu và không sử dụng tài 
liệu làm sao để đảm bảo vừa đánh giá được khả 
năng ghi nhớ, vận dụng kiến thức đồng thời đánh 
giá được khả năng tư duy, sáng tạo của sinh viên, 
nhất là có thể đánh giá khả năng tìm kiếm, chọn 
lọc và xử lý thông tin của sinh viên trong thời đại 
bùng nổ thông tin như hiện nay. Riêng các môn 
Kế toán tài chính trong các bài kiểm tra và thi nên 
thay đổi theo hướng tăng hàm lượng kiến thức 
dạng suy luận bản chất vấn đề và xét đoán nghề 
nghiệp và giảm các câu hỏi định khoản kế toán. 
Đặc biệt, các trường nên xây dựng ngân hàng câu 
hỏi thi cho các môn học, bộ phận chọn đề thi độc 
lập với giảng viên trực tiếp giảng dạy để hạn chế 
“dạy tủ, học tủ”. Trong việc giám sát sinh viên 
kiểm tra, thi cử, các trường nên cân nhắc giữa 
việc lắp đặt camera với việc bố trí nhiều nhận sự 
tham gia để đạt hiệu quả cao nhất. 
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 
55 
4. KẾT LUẬN 
Đề án áp dụng IFRS vào Việt Nam có diễn ra 
đúng như lộ trình mà Bộ Tài Chính đề vạch ra hay 
không phụ thuộc một phần không nhỏ vào công 
tác đào tạo tại các Trường Đại học ở Việt Nam 
trong thời gian tới. Như tác giả đã trình bày ở 
phần đặt vấn đề, VAS mới sẽ được bắt đầu có 
hiệu lực từ 2022, thời gian là rất cận kề và gấp rút. 
Do đó, các cơ sở đào tạo mà chủ yếu là các trường 
đại học nơi đào tạo ra các kế toán viên cần nhanh 
chóng nghiên cứu, triển khai và đưa nội dung 
IFRS vào giảng dạy càng sớm càng tốt. Tuy nhiên 
đưa những nội dung nào, mức độ bao nhiêu, tiếp 
cận như thế nào thì mỗi trường cần nghiên cứu 
thiết kế để phù hợp nhất với điều kiện hoàn cảnh 
riêng của mình. Đặc biệt, các trường cần đánh giá 
lại các vấn đề liên quan đến công tác đào tạo kế 
toán như: CTĐT, đề cương chi tiết, đội ngũ giảng 
viên, phương pháp giảng dạy, đánh giá, giáo trình 
tài liệu để khắc phục những mặt hạn chế; từ đó 
góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo 
ngành Kế toán để có thể đáp ứng nhu cầu hội 
nhập. 
Tính mới của nghiên cứu là trình bày một cách có 
hệ thống thực trạng và giải pháp tháo gỡ khó khăn 
trong công tác đào tạo kế toán ở các trường đại 
học tại Việt Nam theo các nhóm yếu tố quan 
trọng. Trong khi hầu hết các nghiên cứu tương tự 
trước đây chỉ trình bày chung, chưa có sự phân 
phân loại này, hoặc nếu có cũng chưa đầy đủ các 
nhóm yếu tố này. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài vừa 
cung cấp cơ sở lý thuyết cho các nghiên cứu tiếp 
theo nghiên cứu về đào tạo kế toán tại Việt Nam. 
Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cung cấp các giải 
pháp giúp cho các sinh viên, giảng viên và các 
nhà quản lý giáo dục trong việc nâng cao chất 
lượng dạy và học chuyên ngành kế toán nói riêng 
và trong nâng cao chất lượng đào tạo nói chung ở 
các trường đại học tại Việt Nam. Đặc biệt, trong 
giai đoạn cấp bách như hiện nay thì nghiên cứu 
góp thêm phần thúc đẩy tinh thần cho người học, 
người dạy và cả những nhà quản lý giáo dục trong 
việc sẵn sàng tiếp nhận thử thách là phải từng 
bước đổi mới để dạy và học kế toán theo chuẩn 
quốc tế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bộ Tài Chính. (2019). Đề án “Áp dụng chuẩn mực 
báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam”. Hà 
Nội: Bộ Tài Chính. 
Đào Thị Đài Trang. (2018). Giải pháp nâng cao 
chất lượng đào tạo ngành kế toán trong các 
trường đại học ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu 
câu hội nhập. Truy cập tại 
vn/132/2780 
Munter, P. & Reckers PM. (2009). IFRS and 
Collegiate Accounting Curricula in the United 
States: 2008 A Survey of the Current State of 
Education Conducted by KPMG and the 
Education Committee of the American 
Accounting Association. Issues in Accounting 
Education, 2, 131-139. 
Nguyễn Hữu Ánh. (Tháng 6, 2017). Đổi mới đào 
tạo ngành kế toán của các trường đại học của 
Việt Nam đáp ứng yêu cầu xã hội trong xu thế 
hội nhập. Bài viết được trình bày tại hội thảo 
Đổi mới phương pháp đào tạo, cập nhật giáo 
trình giảng dạy kế toán phù hợp với yêu cầu 
cải cách kế toán trong giai đoạn mới, Hồ Chí 
Minh, Việt Nam. 
Nguyễn Thị Thu Hiền., Phạm Tú Anh., & Trần 
Thị Quỳnh Hương. (Tháng 6, 2017). Một số 
thay đổi cần thiết trong việc đào tạo kế toán 
tại các trường đại học Việt Nam dưới sự tác 
động của việc chuyển đổi sang IFRS Bài viết 
được trình bày tại hội thảo Đổi mới phương 
pháp đào tạo, cập nhật giáo trình giảng dạy kế 
toán phù hợp với yêu cầu cải cách kế toán 
trong giai đoạn mới, Hồ Chí Minh, Việt Nam. 
Nguyễn Xuân Hưng. (Tháng 6, 2017). Định 
hướng đào tạo kế toán tại Việt Nam trong quá 
trình hội nhập chuẩn mực lập báo cáo tài 
chính quốc tế (IFRS). Bài viết được trình bày 
tại Hội thảo Đổi mới phương pháp đào tạo, cập 
nhật giáo trình giảng dạy kế toán phù hợp với 
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 47 – 56 
56 
yêu cầu cải cách kế toán trong giai đoạn mới, 
Hồ Chí Minh, Việt Nam. 
Phan Thanh Hải., & Nguyễn Phi Sơn. (2016). 
Đào tạo nhân lực cho ngành kiểm toán độc lập 
của Việt Nam trong các trường đại học – Cơ 
hội và thách thức khi gia nhập TPP, AEC. Bài 
viết được trình bày tại Hội thảo 20 năm thành 
lập Hội Kế toán - Kiểm toán Việt Nam, Hà 
Nội, Việt Nam. 
Trung tâm Dự báo Nhu cầu nhân lực và Thông tin 
Thị trường lao động TP.HCM. (2018). Báo 
cáo phân tích thị trường lao động năm 2018 
dự báo nhu cầu nhân lực năm 2019 tại TP. Hồ 
Chí Minh (Số 411). Truy cập từ: 
tuc/7617.thi-truong-lao-dong-nam-2018-du-
bao-nhu-cau-nhan-luc-nam-2019-tai-thanh-
pho-ho-chi-minh.html 
Vụ Chế Độ Kế toán và Kiểm toán. (2017). Phát 
triển và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về 
Chuẩn mực Báo cáo tài chính tại Việt Nam. 
Bài viết được trình bày tại Hội thảo Đổi mới 
phương pháp đào tạo, cập nhật giáo trình giảng 
dạy kế toán phù hợp với yêu cầu cải cách kế 
toán trong giai đoạn mới, Hồ Chí Minh, Việt 
Nam. 

File đính kèm:

  • pdfdao_tao_ke_toan_tai_cac_truong_dai_hoc_o_viet_nam_giai_doan.pdf