Đặc điểm tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt
Trung Quốc và Việt Nam là quê hương của các loại trà. Trà gắn liền với đời sống tinh thần của nhân
dân hai nước và từ lâu đã hình thành nên văn hóa trà nằm trong tổng thể nền văn hóa dân tộc. Tên
trà trong tiếng Hán và tiếng Việt có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định, thể hiện rõ
nét đặc điểm tri nhận, phương thức tư duy và khả năng liên tưởng phong phú của hai dân tộc. Bài
viết trên cơ sở kết quả khảo sát đặc điểm tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt, tiến hành so sánh,
chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong ngôn ngữ, văn hóa Trung Quốc và Việt Nam thể
hiện qua các phương thức định danh trà, nhằm góp một tài liệu tham khảo cho công tác dạy học
và nghiên cứu tiếng Hán ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt
功夫nghi hồng//công phu, 永春//佛手vĩnh xuân// Phật thủ, 日铸//雪芽nhật trù //tuyết nha, 西湖//龙井 Tây hồ//long tỉnh; 开化//龙须 khai hóa//long tu;老 竹//大方lão trúc//đại phương Trong mỗi tên trà còn có sự hài hòa về bằng trắc, làm tăng thêm tính tiết tấu và tạo nên vẻ đẹp âm nhạc mỗi khi nhắc đến tên các loại trà. Khác với tên trà trong tiếng Hán, tên trà tiếng Việt chủ yếu là ba âm tiết, tiếp đó là hai âm tiết, số lượng tên trà bốn âm tiết là tương đối ít, ít nhất là loại năm âm tiết. Trong tiếng Việt, tên trà chủ yếu đặt theo mô hình “Chè” + từ đơn hoặc song âm tiết chiếm đa số, như chè đen, chè xanh, chè hương, chè Thái Nguyên, chè móc câu, chè hương nhài, chè san tuyết, chè túi lọc, chè bảo bảo. Cách cấu tạo này tuân thủ theo quy tắc ngữ pháp tiếng Việt (từ trung tâm hướng tới ngoại diên). Ngoài ra, có một số tên trà được tổ hợp theo quy tắc ngữ pháp tiếng Hán, trong đó, đại đa số là những từ song âm tiết biểu thị tên trà được mượn từ tiếng Hán, như hồng trà, bạch trà, hoàng trà. Ngoài ra, trong tiếng Việt, hai từ “trà” và “chè” song song tồn tại. Trong đó, chè là âm cổ của trà, mức độ Việt hóa của chè cao hơn trà và thông dụng trong giao tiếp hơn so 44 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC với trà. Mặt khác, trà có thể đứng ở vị trí trung tâm, phía trước mang định tố có giá trị phân định về loại và mang đậm tính chất của một từ Hán Việt, như nhân sâm trà, hồng trà, Đồng thời trà cũng có thể đứng ở phía trước định tố, như trà hương, trà tuyết sơn,....Tuy nhiên, chè chỉ có thể đứng ở trước định tố, mang sắc thái của từ thuần Việt nhiều hơn và không thể đứng ở sau định tố như trà được. 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TÊN TRÀ TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT Cũng với số lượng tên trà đã thu thập được, chúng tôi tiến hành khảo sát và phân loại theo ý nghĩa. Kết quả khảo sát cụ thể như sau: Đối với tên trà Trung Quốc, trong bản thân mỗi tên gọi thường có chứa các yếu tố chỉ tên động, thực vật, màu sắc, hình dáng, phương thức chế tác, hiện tượng thiên nhiên, sông nước, địa danh và đặc biệt là một số loại trà còn mang hai chữ công phu với nghĩa là bản lĩnh, tính bền bỉ. Tỷ lệ từng loại như sau: (1) Tên trà có chứa yếu tố chỉ động vật gồm 17 tên, chiếm 10,96%;(2) Tên trà có chứa yếu tố chỉ mùi vị gồm 2 tên, chiếm 1,29%;(3) Tên trà có chứa yếu tố chỉ hoa cỏ gồm 15 tên, chiếm 9,67%;(4) Tên trà có chứa yếu tố chỉ màu sắc gồm 43 tên, chiếm 27,74%; (5) Tên trà có chứa yếu tố chỉ hình dáng gồm 11 tên, chiếm 7,09%;(6) Tên trà có chứa yếu tố chỉ phương thức chế tác gồm 2 tên, chiếm 1,29% ;(7) Tên trà có chứa hai chữ công phu gồm 11 tên, chiếm 7,09%;(8)Tên trà có chứa yếu tố chỉ hiện tượng thiên nhiên gồm 13 tên, chiếm 8,38%;(9) Tên trà có chứa yếu tố chỉ nước gồm 17 tên, chiếm 10,96%; Kết quả khảo sát về ngữ nghĩa của tên trà tiếng Hán được thể hiện trong đồ thị 1. Tên trà có chứa yếu tố chỉ địa danh, nhất là tên sông, tên núi cũng chiếm một số lượng khá lớn. Tuy nhiên, do đặc thù của tiếng Hán, nhìn trên mặt chữ rất khó xác định tên đất, nhất là với những địa danh không nổi tiếng, cho nên trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin tạm thời chưa đưa ra con số thống kê cụ thể các tên trà có chứa yếu tố chỉ địa danh trong tiếng Hán. Những tên trà có chứa yếu tố chỉ nước và những sự vật chứa nước như 井tỉnh (giếng), 湖hồ, 池trì (ao), 川xuyên, 江giang, 河hà (sông), 溪khê (suối), 海hải (biển), như 永川秀芽vĩnh xuyên tú nha, 涌溪火青 dũng khê hỏa thanh, 金水翠峰kim thủy thúy phong, 新江羽绒茶tân giang vũ nhung tràChứng tỏ quan niệm về trà gắn liền với thủy thổ, với thiên nhiên và đời sống của con người. Ngoài ra, trong tên trà tiếng Hán còn chứa yếu tố chỉ con số như 3, 5, 6, 7, 9, song (đôi)Trong đó, tên trà chứa số 6 và 9 xuất hiện với tần số cao hơn cả. Đó là do trong tâm thức của người Trung Quốc, số 6 và số 9 là những con số may mắn. Số 6 với cách đọc là lục có quan hệ hài âm với 禄lộc. Mỗi khi nghe âm lục, người ta thường liên hệ đến lộc và hy vọng có được cuộc sống vật chất dồi dào. Số 9 lại được coi là con số dương cực thịnh, “con số đế vương”, mang lại cảm giác an lành, may mắn, thành đạt. Các con số này kết hợp với các từ tố khác tạo nên tên trà đa âm tiết, như 九龙茶cửu long trà, 双井緑song tỉnh lục, 六安瓜片 lục an qua phiếnTất cả đều thể hiện ước vọng vươn Đồ thị 1: Kết quả khảo sát về ngữ nghĩa tên trà tiếng Hán 45KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 VĂN HÓA - VĂN HỌC v tới cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy chính đáng của con người. Ước vọng đó được gửi gắm vào tên trà và mỗi khi nghe hay đọc đến những cái tên đầy ý vị hoặc thưởng thức những loại trà hương thơm, vị đượm đó, người ta như được thực sự cảm nhận về một cuộc sống tinh thần cát tường như ý. Những tên trà mang yếu tố chỉ thiên nhiên như 云林 茶vân lâm trà, 秦雾毫tần vụ hào, 前锋雪莲tiền phong tuyết liên, 象棋云雾tượng kỳ vân vụ, 南京雨花茶nam kinh vũ hoa trà, thể hiện sinh động quan hệ giữa trà với thế giới tự nhiên, nhất là thời tiết, khí hậu, có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hương vị của trà. Về mặt màu sắc, người Trung Quốc có ấn tượng đặc biệt đến mức tôn sùng màu hồng. Màu hồng tượng trưng cho sự may mắn, hạnh phúc, đủ đầy. Trong các đám cưới, tiệc vui hay mỗi dịp tết đến xuân về, từ trong nhà đến đường làng ngõ phố thường xuất hiện rất nhiều màu hồng, như câu đối màu hồng, chữ song hỷ màu hồng, biểu ngữ màu hồngNgoài ra, màu xanh là màu của sự sống, màu của thiên nhiên cây cỏ cũng thường xuất hiện trong tên trà. Đối với tên trà trong tiếng Việt, qua khảo sát, chúng tôi đã thu được kết quả cụ thể như sau: (1) Tên trà có chứa yếu tố chỉ động vật gồm 3 tên, chiếm 3,75%; (2) Tên trà có chứa yếu tố chỉ mùi vị gồm 11 tên, chiếm 13,75%; (3) Tên trà có chứa yếu tố chỉ hoa cỏ gồm 18 tên, chiếm 22,5%; (4) Tên trà có chứa yếu tố chỉ màu sắc gồm 13 tên, chiếm 16,25%; (5) Tên trà có chứa yếu tố chỉ hình trạng gồm 4 tên, chiếm 5%; (6) Tên trà có chứa yếu tố chỉ phương thức chế tác gồm 2 tên, chiếm 2,5%; (7) Tên trà có chứa yếu tố chỉ hiện tượng thiên nhiên gồm 1tên, chiếm 1,25%; (8) Tên trà có chứa yếu tố chỉ nước gồm 5 tên, chiếm 6,25%; (9) Tên trà có chứa yếu tố chỉ địa danh gồm 16 tên, chiếm 20%. Kết quả khảo sát có thể biểu diễn trong đồ thị 2. Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt còn thể hiện rõ nét ý nghĩa so sánh, ví von, chứng tỏ thủ pháp tu từ trong ngôn ngữ đã được vận dụng vào việc đặt tên cho trà. Vai trò của thủ pháp tu từ này làm cho tên gọi của trà mang đậm tính hình tượng, tăng thêm sức cuốn hút của trà với đông đảo người tiêu dùng và khiến cho tên trà đã trở thành mỹ từ làm giàu cho hệ thống từ vựng và làm đẹp thêm cho tiếng Hán và tiếng Việt. Mặt khác, những sự vật hiện tượng dùng để ví von cũng thể hiện sinh động đặc trưng văn hóa cũng như năng lực thẩm mỹ và khả năng liên tưởng phong phú của hai dân tộc. Theo thống kê của chúng tôi, số lượng tên trà mang ý nghĩa ví von có 45 tên, chiếm 29,03%. Những tên này có thể chia thành hai loại, một là cả chỉnh thể tên trà đều mang ý nghĩa ví von, như 韶峰thiều phong (đỉnh núi mùa xuân), 翠 螺thúy loa (ốc xanh), 白毛猴bạch mao hầu (khỉ lông trắng), 黄金桂hoàng kim quế (quế vàng), 大红袍đại hồng bào (áo bào hồng), 湘波緑Tương ba lục (xanh màu sóng sông Tương), 永春佛手vĩnh xuân Phật thủ (tay Phật mãi xuân), 江山绿牡丹giang sơn lục mẫu đơn (mẫu đơn xanh màu sông núi) Loại thứ hai là loại trong tên trà có chứa yếu tố biểu thị ví von. Thành phần dùng để ví von này thường đứng ở phía trước, kết hợp với thành phần ở phía sau làm thành cấu trúc định ngữ nối với trung tâm, và thành phần mang Đồ thị 2. Kết quả khảo sát về ngữ nghĩa của tên trà tiếng Việt 46 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC tính chất ví von này đã phát huy vai trò phân định về chủng loại. Ví dụ như: 龙舞茶long vũ trà, 普陀佛茶 Bồ tát Phật trà, 通天岩茶thông thiên nham trà, 南京雨 花茶Nam kinh vũ hoa trà, 花果山云雾茶hoa quả sơn vân vụ tràTrong đó, thành phần dùng để ví von lại có thể chia thành những yếu tố chỉ cảnh quan sông núi, như 通天岩thông thiên nham, 云海vân hải, 凌云 lăng vân... Rất nhiều địa danh nổi tiếng đã xuất hiện trong tên trà, vừa có vai trò xác định xuất xứ, vừa chứa đựng hàm ý ví von trà với địa thế núi sông, hình trạng của sự vật như: Kính đình, Hoa quả sơn, Động đình, Nam nhạc, Tây hồ, Hán thủy Quả thực là mỹ từ lại thêm mỹ từ, làm đẹp cho mỗi tên gọi của trà, khiến người ta mỗi khi thưởng thức món quà mà thiên nhiên ban tặng này như cảm thấy mình được hòa vào thiên nhiên. Đó là một thú vui tao nhã, giúp người ta tận hưởng hương vị cuộc sống. Có những tên trà đầy tính hình tượng, hết sức sống động như 莲花迎春 liên hoa nghênh xuân (hoa sen đón xuân sang), khiến người ta hình dung đến những cánh sen đong đưa trước gió xuân, càng làm tăng thêm thi vị của tên trà. Trong tiếng Việt, tên trà có chứa yếu tố chỉ địa danh gồm 16 tên, chiếm20%, như chè Thái Nguyên, chè Hà Giang, chè Suối Giàng, chè tuyết Lu, chè Bảo Lộc Ngoài ra, một số tên trà mang tên công ty, đơn vị sản xuất, chế biến như chè Kim Anh, chè Ba Đình, chè Đồng Tâm Từ việc phân tích ý nghĩa tu từ của tên trà, có thể thấy, tính chất tu từ đó được thể hiện trên ba phương diện: (1)Vận dụng thủ pháp ẩn dụ; (2)Vận dụng thủ pháp cường điệu; (3)Vận dụng thủ pháp song quan. Thủ pháp tu từ trong tên gọi của trà đã phát huy cao độ vai trò của ngôn ngữ học, mỹ học cũng như nghệ thuật ẩm thực, mẹo kinh doanh, nâng giá trị của trà lên tầm cao của đời sống vật chất và tinh thần. Trong tiếng Việt, ý nghĩa ví von của tên trà cũng có nhiều điểm tương đồng với tiếng Hán. Chẳng hạn như: chè mỏ quạ, chè hồng đào, chè hoa sứ, chè thủy tiên Ngoài ra, còn có nhiều tên trà có nguồn gốc Trung Quốc, như: chè Thiền, chè Long tỉnh, chè thiết Quan âm Tuy nhiên, xét về tổng thể, tên trà trong tiếng Việt do số lượng ít hơn nên phương thức định danh cũng không đa dạng như tên trà Trung Quốc. Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt còn thể hiện sắc thái văn hóa tín ngưỡng của hai dân tộc. Phật giáo chiếm vị trí quan trọng trong tâm thức của người Trung Quốc và người Việt Nam. Phật giáo răn dạy con người thanh tâm quả dục, mưu cầu điều thiện, đồng thời luôn tâm niệm được đức Phật phù hộ độ trì. Từ một số tên gọi của trà, chúng ta có thể thấy được phần nào ý thức tín ngưỡng Phật giáo của người dân. Chẳng hạn, tên trà có chứa yếu tố chỉ tứ linh: long, ly, quy, phượng , như: 双龙银针song long ngân châm,开 化龙须khai hóa long tu, 水金龟thủy kim quy, 凤凰茶 phương hoàng trà. Trong đó, tên trà chứa long chiếm số lượng khá lớn, tới 10 tên. Đặc biệt là hoa Phật trà, tiên nhân chưởng trà, thiết quan âm, mang đậm màu sắc Phật giáo được đông đảo quần chúng ưa chuộng. Những tên trà loại này của Trung quốc đều được người Việt Nam tiếp nhận và cảm thấy rất quen thuộc, gần gũi với đời sống văn hóa Việt Nam. Tên trà tiếng Việt thường mang yếu tố chỉ tên hoa cỏ. Ngoài ra, những tên trà có chứa yếu tố chỉ hương sắc cũng khá phổ biến, như chè hương, chè hương sen, chè hương nhài, chè xanh, chè đen, hồng trà, bạch tràĐiều đó chứng tỏ người Việt Nam cũng như người Trung Quốc, thưởng thức trà bằng nhiều giác quan và cảm nhận trà bằng cả các yếu tố hương, sắc, vị, hình. Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt cũng thường có chứa yếu tố chỉ địa danh, hay các hiện tượng thiên nhiên như vân, vũ, lôi, tuyết, xuân, quang, nhật, nguyệt, Cả những tên núi tên sông cũng được dùng làm yếu tố tạo nên tên gọi các loại trà. Điều đó thể hiện sâu sắc tình yêu quê hương, niềm tự hào của từng dân tộc với đất nước của mình. Đồng thời cũng thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa con người với thiên nhiên, trên quan niệm thiên địa nhân nhất thể. Từ đặc trưng ý nghĩa của tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt, thêm một lần chứng tỏ “nghĩa của từ là một hiện tượng tâm lý, là sự hiểu biết cùng với xúc cảm kèm theo xuất hiện (hay được gợi lên) trong trí óc người bản ngữ về sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất, quan hệ mà từ biểu thị khi nghe thấy (hoặc đọc) từ ấy (Nguyễn Đức Tồn, 2013).” 4. KẾT LUẬN Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt có nhiều điểm tương đồng, song cũng có nhiều điểm khác biệt. 47KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 VĂN HÓA - VĂN HỌC v Chúng phong phú, đa dạng cả về cấu trúc và ý nghĩa, phần lớn đều ngắn gọn, đặc biệt là tên trà trong tiếng Hán với cấu trúc bốn âm tiết chiếm tỷ lệ khá cao, cân đối hài hòa, gợi vẻ đẹp về tiết tấu, âm nhạc, gây hứng khởi cho người nói và người nghe. Về mặt ngữ nghĩa, tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt có chứa các yếu tố chỉ tên động vật, thực vật, tên đất, tên núi, tên sông, tên các hiện tượng thiên nhiên, yếu tố chỉ màu sắc, mùi vị, nhất là những yếu tố mang màu sắc tín ngưỡng dân gian, con số chứa ý nghĩa may mắn Tất cả thể hiện sinh động quan niệm thiên, địa, nhân nhất thể cũng như tâm lý hướng thiện và nguyện ước vươn tới cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy của nhân dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Đồng thời, tên trà cũng thể hiện vẻ đẹp của ngôn ngữ, tính chất tinh tế của việc vận dụng các thủ pháp tu từ vào quá trình định danh, khiến cho tên gọi mang tính hình tượng, giàu sức gợi tả, cùng một lúc chuyển tải đến người đọc và người nghe nhiều thông tin về trà trong giới hạn số chữ của mỗi tên gọi. Điều đó cũng có ý nghĩa to lớn đối với việc quảng bá trà như những thương hiệu trên thị trường, phát huy giá trị kinh tế của nó. Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt thể hiện đời sống tinh thần dồi dào, làm phong phú cho hệ thống từ vựng của hai ngôn ngữ Trung Việt. Đó là một trong những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa hết sức lí thú cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu./. Tài liệu tham khảo: 1. Trịnh Quang Dũng (2005), Văn minh trà Việt, NXB Phụ nữ. 2. Nguyễn Thiện Giáp (2015), Phương pháp luận Phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXB Giáo dục, Hà Nội 3. Nguyễn Đức Tồn(2013), Những vấn đề của ngôn ngữ học cấu trúc dưới ánh sáng lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại, NXB Khoa học Xã hội. 4. Nguyễn Như Ý (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 5. 陈洁光、黄月圆 (2003), 中国的品牌命名——十 类中国产品品牌名称的语言学分析, 中文科技期刊 数据库, 第2期 6. 王军云 (2005), 中国起名宝典,中国长安出版社 7. 朱亚军 (2003), 商标命名研究,上海外语教育出 版社 FEATURES OF DIFFERENT NAMES OF TEA IN CHINESE AND VIETNAMESE PHAM THI THANH VAN Abstract: China and Vietnam are home to many kinds of tea. Tea which is associated with spiritual life of Chinese and Vietnamese people has become indigenous culture in both countries. Name of tea in Chinese and Vietnamese has some similarities and differences and it expresses the way of thinking and connecting in ideas of these two races. The article bases on the analysis of tea name in Chinese and Vietnamese to show the similarities and differences in language and culture of China and Vietnam, which can be considered as references to teaching and studying Chinese in Vietnam. Keywords: tea name, Chinese, Vietnamese.
File đính kèm:
- dac_diem_ten_tra_trong_tieng_han_va_tieng_viet.pdf