Đặc điểm cấu tạo của danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí
Tóm tắt: Danh từ là một từ loại có vị trí quan trọng trong số các từ loại của một ngôn ngữ nói chung và
của tiếng Việt nói riêng. Sự phong phú và đa dạng của danh từ đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa
dạng tương ứng ở cấu trúc ngữ đoạn có danh từ làm thành phần trung tâm tạo thành ngữ danh từ hay
còn gọi là danh ngữ. Trong ngôn ngữ, thời gian chiếm một vị trí quan trọng nhất định bởi trong mỗi phát
ngôn đều có thể xuất hiện thời gian. Có nhiều phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để chỉ thời gian,
trong đó danh ngữ chỉ thời gian là một trong những phương tiện tiêu biểu, có giá trị biểu cảm phong phú.
Bài viết này đi sâu tìm hiểu đặc điểm cấu tạo của danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí về mặt
cấu trúc danh ngữ, danh từ trung tâm, cấu tạo của phần phụ trước và phần phụ sau. Từ đây, đưa ra
những nhận xét và nhận định ban đầu về đặc điểm cấu tạo cũng như giá trị biểu hiện nghĩa thời gian
của danh từ chỉ thời gian trong văn bản báo chí.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm cấu tạo của danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí
hính xác và khách quan. Thời gian không xác định luôn được đi kèm sau thời gian xác định để người đọc có thể định vị được rõ ràng, tránh gây hiểu lầm về thông tin thời gian của sự việc. 2.3. Phần phụ sau Qua các ngữ liệu có được, chúng tôi nhận thấy phần phụ sau của danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí được cấu tạo từ các thực từ và hư từ. Hư từ thường gặp ở đây khá hạn chế, chủ yếu là các từ: nay, đây, qua, trước, sau, tới thường đi với các danh từ: ngày, tháng, năm, sáng, chiều, tối, tuần, quý, mùa, thời gian, thế kỷ và nằm cuối danh ngữ, ví dụ như: chiều qua, những ngày gần đây, những tháng tới, những năm trước đây, những quý đầu năm nay, những kỳ họp sau, Do đặc điểm của thời gian trong báo chí thường được định vị theo những thời điểm xác định hoặc định hướng thời gian mang tính khái quát nên không có các danh ngữ như: khuya qua, trưa qua, Còn các thực từ thì xác lập nên các định ngữ cho danh ngữ. Dưới đây là bảng thống kê phân loại các loại định ngữ có mặt trong phần phụ sau của danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí: Bảng 5. Bảng thống kê phân loại các loại định ngữ STT Loại định ngữ TSXH Tỉ lệ % 1 Định ngữ là 1 ngữ danh từ chỉ thời gian 464 40.66 2 Định ngữ là các từ diễn đạt bao hàm nghĩa duy nhất 287 25.15 3 Định ngữ là một ngữ vị từ chỉ trạng thái, hoạt động của nhân vật, đối tượng 275 24.10 4 Định ngữ miêu tả (mang ý nghĩa đánh giá) 115 10.07 Chúng tôi phân loại các định ngữ ở phần phụ sau của danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí thành 4 loại như trong bảng. Số liệu thống kê cho thấy định ngữ là một ngữ danh từ chỉ thời gian là loại định ngữ có TSXH nhiều nhất: 464 lần, chiếm 40.66%. Định ngữ miêu tả có TSXH ít nhất: 115 lần chiếm 10.07%. Định ngữ là các từ diễn đạt bao hàm nghĩa duy nhất và định ngữ là một ngữ vị từ chỉ trạng thái, hoạt động của nhân vật, đối tượng có TSXH nhiều thứ nhì và ít chênh lệnh nhau, lần lượt là: 287 lần chiếm 25.15% và 275 lần chiếm 24.10%. ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 3(2015), 47-54 51 Loại định ngữ là một ngữ danh từ chỉ thời gian xuất hiện phổ biến nhất và hầu hết tất cả các loại định ngữ có phần phụ sau đều thấy xuất hiện loại định ngữ này. Loại định ngữ này cung cấp thời gian cụ thể, chính xác cho các sự kiện được phản ánh. Ví dụ: Ngày 10-3, báo Tuổi trẻ đăng bài “Tự ý ngăn đường thu phí” phản ánh xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi (TP.HCM) để cho các cấp tự ngăn đường thu phí [4], Những tháng đầu năm 2011, tình hình kinh tế - xã hội (KT-XH) nước ta có nhiều khó khăn [5], Những danh ngữ có định ngữ là một ngữ danh từ chỉ thời gian có chức năng định vị thời gian của sự kiện được nói đến. Loại định ngữ này trong văn bản báo chí thường có cấu trúc đơn giản, lặp lại, chủ yếu là nêu lên thời gian cụ thể theo các mốc ngày tháng năm, hoặc là một ngữ danh từ chỉ thời gian có hoặc không kèm hư từ chỉ xuất, ví dụ như: ngày hôm nay, ngày hôm qua, sáng mai,... Các thông tin, sự kiện được báo chí cung cấp luôn đòi hỏi tính trung thực và sự chính xác, vì thế hai yếu tố thời gian và địa điểm luôn có mặt, đó cũng là lý do cho sự xuất hiện nhiều của loại định ngữ này. Bên cạnh định ngữ là một ngữ danh từ chỉ thời gian, định ngữ là các từ diễn đạt bao hàm nghĩa “duy nhất” cũng ghi lại thời gian của sự kiện nhưng đây là những mốc thời gian quan trọng, đánh dấu sự mở đầu hoặc kết thúc của sự kiện, hành động diễn ra trong một khoảng thời gian. Loại định ngữ này xuất hiện khá phổ biến trong văn bản báo chí để tường thuật các sự kiện và đánh dấu thời gian đầu tiên, cuối cùng sự kiện ấy diễn ra để bạn đọc tiện theo dõi. Định ngữ là các từ diễn đạt bao hàm nghĩa “duy nhất” thuộc loại định ngữ hạn định - là loại định ngữ nhằm chỉ rõ cái sở chỉ của ngữ danh từ do các từ diễn đạt bao hàm nghĩa “duy nhất” như đầu tiên, cuối cùng, đẹp nhất đảm nhiệm, thường đi với các danh từ: ngày, tháng, năm, Ví dụ: Ngày làm việc đầu tiên của Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Khóa XIII [21]; ngày đầu tiên ra quân hưởng ứng tháng an toàn giao thông [21], Định ngữ là một ngữ vị từ chỉ trạng thái, hoạt động của nhân vật, đối tượng định vị thời gian theo những sự kiện, hoạt động mà nhân vật tham gia. Nhân vật ở đây thường là toàn cộng đồng xã hội nói chung: mọi người, toàn dân, xã hội nên nội dung ý nghĩa của định ngữ vì thế thường hướng đến định hướng, vận động một hành động tích cực nào đó. Định ngữ là một ngữ vị từ chỉ trạng thái, hoạt động của nhân vật, đối tượng thường xuất hiện sau các danh từ trung tâm: ngày, năm, khi, tháng, giờ, Ví dụ: ngày hội tư vấn - tuyển sinh hướng nghiệp [2]; tháng hành động vệ sinh an toàn thực phẩm [5]; Ngày toàn dân đi bầu cử [5]; Ngày toàn dân hưởng ứng hiến máu nhân đạo [1], Định ngữ miêu tả xuất hiện khá hạn chế trong văn bản báo chí. Định ngữ miêu tả xuất hiện trong văn bản báo chí thường mang ý nghĩa đánh giá nhiều hơn là miêu tả đơn thuần. Có điều này là do đặc điểm của văn bản báo chí là thông tin một cách ngắn gọn, súc tích và khách quan về sự kiện, nếu có miêu tả thì thường chỉ mang ý nghĩa đánh giá để định hướng bạn đọc. Một số ít các định ngữ miêu tả này thường gặp nhiều trong các bản tin về kinh tế, an toàn giao thông, các vụ án hình sự hay các tai nạn lao động nhằm gây ấn tượng mạnh cho bạn đọc tạo sự cảnh báo hoặc răn đe. Định ngữ miêu tả xuất hiện sau các danh từ trung tâm: ngày, năm, tháng, giờ, đêm, Ví dụ: ngày đẫm máu [1]; phút định mệnh ấy [2]; thời điểm khó khăn [2], Các định ngữ xuất hiện sau danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí thường khá đơn giản và ít có nhiều trường hợp có thể xác định được nhiều định ngữ của cùng một danh từ trung tâm. Chỉ có trường hợp định ngữ là một ngữ danh từ chỉ thời gian và định ngữ là các từ diễn đạt bào hàm nghĩa duy nhất. Định ngữ là một ngữ danh từ chỉ thời gian thì các định ngữ xác lập được thường chỉ là các danh ngữ chỉ thời gian được đặt liên tiếp nhau để nêu lên thời gian chính xác theo các mốc: thứ, ngày, tháng, năm, ví dụ: Ngày 2 tháng 3 năm 2010, Thứ hai ngày 3-7, Định ngữ là các từ diễn đạt bao hàm nghĩa duy nhất thường có thêm phần định ngữ là một ngữ vị từ miêu tả hoạt động, trạng thái của đối tượng hoặc thời gian được định vị. 2.4. Phần phụ trước Phần phụ trước của danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí là một lượng ngữ. Lượng ngữ của danh ngữ thường là một lượng từ chỉ số lượng chính xác hoặc không xác định; những từ ngữ khác diễn đạt ý về số lượng: nhiều, bao nhiêu; tổ hợp số từ hoặc một ngữ danh từ chỉ lượng. Ngoài ra, từ khoảng, chừng thường xuất hiện trước các số từ, tổ hợp số từ hoặc ngữ danh từ chỉ lượng để diễn đạt ý ước chừng trong phạm vi một lượng cụ thể. Lê Sao Mai 52 Bảng 6. Bảng thống kê phân loại phần phụ trước STT Phần phụ trước DT trung tâm Dẫn chứng TSX H 1 Lượng từ Ngày - Một ngày - Hai ngày 242 Năm - Những năm... - Mỗi năm 208 Giờ - Hàng giờ - Nửa giờ 199 Tháng - Mấy tháng - Những tháng 194 Quý -Hai quý 80 Tiếng -Hai tiếng 79 Phút -5 phút 73 Thế kỷ - Một thế kỷ - Hai thế kỷ 58 Đêm -Hai đêm 51 Thập kỷ - Một thập kỷ - Nửa thập kỷ 46 Giây - Những giây 44 Hôm -Hai hôm 42 Thời điểm -Một thời điểm 17 2 Quán từ Tết - Cái tết - Một cái tết 12 3 Những từ ngữ khác diễn đạt ý về lượng Ngày - Nhiều ngày 48 Năm -Nhiều năm 37 Tuần -Nhiều tuần 25 Tháng -Nhiều tháng 23 Tiếng -Nhiều tiếng 19 Thời điểm -Nhiều thời điểm 18 Giờ -Nhiều giờ 17 Đêm -Nhiều đêm 9 4 Tổ hợp số từ Ngày -Hai mươi ngày 36 Năm -Hai mươi năm 6 Tháng -Hai mươi tháng 19 Giờ -Mười bốn giờ -Hai mươi bốn giờ 17 Thế kỷ -Mười hai thế kỷ 4 5 Ngữ Ngày -Một vài ngày 40 danh từ chỉ lượng Năm -Khoảng 1 năm 27 Tháng -Khoảng 1 tháng 24 Giờ -Khoảng 1 giờ 22 Phút -Khoảng mấy phút 20 Thời điểm -Một vài thời điểm 16 Qua bảng thống kê cho thấy phần phụ trước có TSXH của các tiểu loại lượng ngữ lần lượt là: lượng từ: 1332 lần, chiếm 75.33%; những từ ngữ khác (nhiều, bao nhiêu): 196 lần, chiếm 11.08%; ngữ danh từ chỉ lượng: 149 lần, chiếm 8.42%; tổ hợp số từ: 82 lần, chiếm 4.63%; quán từ: 12 lần, chiếm 0.67%. Trong đó, ở mỗi tiểu loại, danh từ ngày đều là danh từ có tần số xuất hiện nhiều nhất. Từ kết quả trên, chúng tôi có nhận xét về phần phụ trước như sau: so với các tiểu loại khác thì lượng từ có TSXH phổ biến nhất, chiếm đến 75%. Các danh từ kết hợp với nó có thể có hoặc không có định ngữ theo sau. Tuy nhiên có sự hạn chế trong khả năng kết hợp giữa số từ xác định với các danh từ chỉ thời gian, đặc biệt trường hợp số từ kết hợp với những danh từ chỉ thời gian không xác định hầu như không có. Phần phụ trước là một lượng từ xuất hiện nhiều nhất, thường xuất hiện ở các danh từ: ngày, năm, giờ, tháng, quý, tiếng, phút, Lượng từ không xác định xuất hiện chủ yếu là các từ: những, mỗi, tất cả, cả. Lượng từ mỗi không kết hợp với các danh từ có từ chỉ xuất, ví dụ: mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi tháng, nhưng với từ những và từ chỉ tổng lượng tất cả, cả thì sau danh từ mà nó kết hợp phải có định ngữ có thể là định ngữ chỉ xuất hay bất kỳ định ngữ nào, ví dụ: những ngày gần đây [1]; cả mùa vải năm nay [2]; tất cả các ngày trong tuần [3], Trong lượng từ không xuất hiện số từ chỉ số lượng ước chừng như vài, dăm, mấy... và không xuất hiện từ rưỡi. Số từ chỉ số lượng chính xác như: một, hai, ba, bốn, thường kết hợp với các danh từ chỉ thời gian như: ngày, tuần, tháng, năm, giờ, tiếng. Trong phần phụ trước này, chúng ta cũng gặp một số trường hợp kết hợp đơn nhất của danh từ chỉ thời gian, ví dụ: xế chiều, rạng sáng tuy nhiên số lượng xuất hiện không đáng kể: Rạng sáng ngày 14-3, hệ thống ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 3(2015), 47-54 53 nhận được tin tàu Sơn Trà đã tiếp cận và lai dắt tàu bị nạn về Đà Nẵng [1], Quán từ cái không xuất hiện trong phần phụ trước của danh ngữ trừ một trường hợp duy nhất là danh từ Tết, danh từ Tết khi kết hợp với quán từ cái nhất thiết phải có phần phụ sau, ví dụ: một cái tết đầy đủ [3]; một cái tết sum vầy [5], Những từ ngữ khác diễn đạt về lượng trong văn bản báo chí xuất hiện khá nhiều, 196 lần. Các danh từ xuất hiện loại lượng ngữ này là: ngày, năm, tuần, tháng, tiếng, thời điểm, giờ, đêm. Tuy nhiên ở đây chỉ thấy xuất hiện vị từ nhiều và đại từ bao nhiêu chứ không có vị từ ít và đại từ bấy nhiêu, trong đó tần số xuất hiện của nhiều là đa số. Ví dụ: nhiều ngày [1]; nhiều năm [2]; bao nhiêu ngày [4], Tổ hợp số từ có tần số xuất hiện 82 lần. Các danh từ thường xuất hiện loại lượng ngữ là một tổ hợp số từ: ngày, năm, tháng, giờ, thế kỷ. Loại lượng ngữ này thường dùng để định lượng thời gian. Ví dụ: hai mươi ngày [1], mười tháng [1], mười ba giờ [2], mười tám thế kỷ [3], Trong ngữ danh từ chỉ lượng, khi diễn đạt ý ước chừng trong phạm vi một lượng cụ thể, văn bản báo chí thường không dùng danh từ độ mà chỉ dùng hai danh từ: khoảng, chừng, trong đó tần số xuất hiện của khoảng chiếm đa số. Ví dụ: chừng 15 phút [2]; khoảng 10 năm trở lại đây [2]; khoảng 10 ngày [5], Các từ thường xuất hiện tiểu loại lượng ngữ này là: ngày, năm, tháng, giờ, phút, thời điểm. Có thể nói phần phụ trước của danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí tuy không nhiều nhưng đã thể hiện được phần nào tính đặc trưng của các danh từ chỉ thời gian. Mỗi loại từ cấu tạo nên phần lượng ngữ của danh ngữ có khả năng kết hợp khác nhau, trong đó cần chú ý lượng từ chỉ số lượng, đặc biệt là lượng từ chỉ số lượng không xác định để sử dụng phù hợp với tiêu chí thời gian rõ ràng, chính xác và khách quan trong văn bản báo chí. 3. Kết luận Chỉ với một số ít danh từ chỉ thời gian nhất định nhưng đã có đến 4482 danh ngữ chỉ thời gian được xác lập trong văn bản báo chí. Như vậy, có thể thấy rằng, nếu với một số lượng hữu hạn danh từ chỉ thời gian, chúng ta chỉ có từng đó cách để diễn đạt thời gian thì nay nhờ cách xác lập các định ngữ ở phần phụ sau mà chúng ta có thể diễn đạt nhiều hơn, phong phú hơn các kiểu thời gian. Tin tức là một thể loại báo chí ngắn gọn, cô đúc, súc tích và có tính thời sự cao, có nhiệm vụ thông báo, phản ánh sự kiện mới, chưa đi sâu vào phân tích đánh giá và giải quyết vấn đề hoặc nếu có thì chỉ có thể bình luận nhẹ nhàng về sự kiện, con người khi cần thiết để thể hiện chính kiến hay định hướng dư luận. Chính vì những lý do đặc thù này của văn bản báo chí nói chung và thể loại tin được khảo sát nói riêng mà danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản báo chí có cấu tạo đơn giản hơn so với danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản nghệ thuật, đặc biệt là phần phụ sau. Tuy nhiên, nó cũng đã thể hiện phần nào sự linh hoạt trong việc biểu hiện nghĩa của danh từ chỉ thời gian nói chung và danh ngữ chỉ thời gian nói riêng. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Tài Cẩn (2004), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - từ ghép - đoản ngữ), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. [2] Nguyễn Tài Cẩn, (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [3] Nguyễn Quốc Dũng (2003) “Đặc điểm ngữ pháp ngữ nghĩa của các danh ngữ chỉ thời gian trong tiếng Việt”, Thông báo khoa học Trường ĐHSP Huế, (1), tr. 5. [4] Nguyễn Văn Hán, “Một số nhận xét về danh từ, danh ngữ chỉ thời gian trong Tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh. [5] Lê Sao Mai (2011), Danh ngữ chỉ thời gian trong văn bản tiếng Việt (qua văn bản báo chí và nghệ thuật), Luận văn thạc sĩ, Huế. STRUCTURAL CHARACTERISTICS OF NOUN PHRASES DENOTING TIME IN JOURNALISTIC WRITING Abstract: The noun is a part of speech which has an important status among the parts of speech of a language in general and of Vietnamese in particular. The richness and diversity of the noun has contributed to the richness and diversity of a corresponding syntagmatic structure with a head noun helping to form a nominal phrase or a noun phrase. In language, time occupies a certain Lê Sao Mai 54 significant position because it can appear in every utterance. Many means of language are used to indicate time, of which noun phrases denoting time are one of the typical means which possess abundant emotional values. This paper presents an in-depth investigation into the structural characteristics of noun phrases denoting time in journalist writing in terms of the structures of noun phrases, head nouns, premodifiers and postmodifiers, thereby making comments and initial remarks on the structural characteristics as well as the value of expressing time of temporal nouns in journalistic writing. Key words: noun; noun phrase; noun phrase denoting time; journalistic writing; parts of speech
File đính kèm:
- dac_diem_cau_tao_cua_danh_ngu_chi_thoi_gian_trong_van_ban_ba.pdf