Công nghiệp hỗ trợ với phát triển ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Trong những năm gần đây, vấn đề phát triển ngành CNHT được coi là một trong
những giải pháp quan trọng tại Việt Nam nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, tạo động
lực để phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chính trong nền kinh tế. Mục đích
của bài viết là đưa ra những lập luận lý thuyết về vai trò của ngành công nghiệp hỗ trợ
(CNHT) đến phát triển ngành công nghiệp điện tử (CNĐT) trong bối cảnh cuộc Cách mạng
Công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0), từ đó, xem xét với trường hợp thực tiễn của Việt Nam để
tính toán các hệ số tác động của CNHT đến phát triển CNĐT trong nước, và đưa ra những
đánh giá về ảnh hưởng của CMCN 4.0 đến mối quan hệ giữa phát triển CNHT và phát triển
ngành CNĐT Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Công nghiệp hỗ trợ với phát triển ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
* lndoanhthu_ptkh ac_tinh 0.00124629 0.00124629 -.02139682* -.02139682** LnGDP 0.05650991 0.05650991 3.3430299*** 3.3430299*** Pci 0.01434712 0.01434712 0.0264144 0.0264144 Dtld -0.02715829 -0.02715829 -.17636618* -.17636618* qmdn_ld 2 -0.18342222 -0.18342222 -.32267699* -0.32267699 3 -0.33183208 -0.33183208 -0.40834957 -0.40834957 XNK 1 .17835836** .17835836** 0.01202432 0.01202432 Nhomdn Doanh nghiep tu nhan -0.32431508 -0.32431508 -0.30133556 -.30133556*** Doanh nghiep có von dau tu nuoc ngoai -0.16512359 -0.16512359 -0.2160614 -0.2160614 _cons -2.1371573 -2.1371573 -36.661148*** -36.661148*** N 1704 1704 1704 1704 r2 0.30561129 0.30561129 legend: * p<.1; ** p<.05; *** p<.01 112 Trong đó: mh1 là hồi quy thông thường; mh2 là mô hình re, mh3 là mô hình fe và mh4 là fe cluster (ma_thue) Nguồn: Tính toán của tác giả Từ bảng 5, có thể thấy rằng, kết quả tính toán tác động của CNHT đến CNĐT ở cả 4 mô hình đều cho thấy doanh thu ngành sản xuất linh kiện điện tử và doanh thu của một số ngành sản xuất các sản phẩm hỗ trợ khác đều có tác động đến doanh thu của toàn ngành CNĐT. Ở (mh4), với hệ số hồi quy χ=0,25290833 có nghĩa là, khi các yếu tố khác là không thay đổi, nếu doanh thu linh kiện điện tử của tỉnh tăng thêm 1% thì sẽ làm cho doanh thu của cácdoanh nghiệp ngành điện tử tăng gần 0,253 %. Tuy nhiên, nếu như hệ số tác động của doanh thu linh kiện điện tử luôn là tác động dương, thì hệ số tác động của doanh thu các sản phẩm CNHT khác lại có sự khác biệt ở mh1, mh2 và mh3, mh4. Điều này cho thấy rằng, trừ lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, các lĩnh vực sản xuất sản phẩm CNHT khác chưa thể hiện rõ vai trò tích cực đến sự phát triển của ngành CNĐT trong nước. Có thể giải thích nguyên nhân dẫn đến tác động này là do hoạt động sản xuất của các ngành CNHT như sản xuất giấy, xốp, nhựa, khuôn đúc, kim loại, ... chưa tập trung phục vụ cho đối tượng là CNĐT trong nước, do đó, chưa tạo ra động lực cho sự phát triển của ngành CNĐT. Mặt khác, khi xem xét kết quả các hệ số hồi quy, có một vài điểm đáng lưu ý ở các biến kiểm soát được thêm trong mô hình, cụ thể là, quy mô thị trưởng (thể hiện ở chỉ tiêu GDP cấp tỉnh và biến giả xuất nhập khẩu) có tác động tích cực đến sự gia tăng doanh thu của CNĐT; trong khi đó, doanh nghiệp CNĐT có quy mô vừa có thể có tốc độ tăng doanh thu nhỏ hơndoanh nghiệp có quy mô nhỏ; chất lượng lao động đào tạo tại các tỉnh chưa có tác động tích cực đến sự gia tăng doanh thu của CNĐT; nhóm doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng doanh thu nhỏ hơn nhóm doanh nghiệp Nhà nước; ... Như vậy, có thể thấy rằng, CNHT cho CNĐT Việt Nam hiện mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu hình thành, số lượng doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện ít và mất cân đối lớn với số lượng doanh nghiệp lắp ráp, thu hút vốn đầu tư, quá trình đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức diễn ra chậm, đặc biệt với doanh nghiệp CNHT nội địa. Trong mối quan hệ với CNĐT, có thể thấy rằng phát triển CNHT có ý nghĩa với phát triển ngành CNĐT chính, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, trong khi các ngành sản xuất CNHT khác lại chưa thể hiện rõ vai trò tích cực với ngành CNĐT Việt Nam. 4.3. Đánh giá tác động của CMCN 4.0 đến mối quan hệ giữa CNHT và phát triển CNĐT tại Việt Nam Khái niệm về CMCN lần thứ tư (hay còn gọi là CMCN 4.0) xuất hiện đầu tiên cách đây hơn sáu năm tại Đức. Đầu năm 2016, tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) lần thứ 46 tổ chức ở Thụy Sĩ với sự có mặt của 40 nguyên thủ quốc gia và hơn 2.500 quan khách từ hơn 100 nước trên thế giới, chủ đề “Cuộc CMCN lần thứ tư” được phân tích một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, trong tương lai không xa (dự kiến đến năm 2030) trên thế giới sẽ có 90% dân số sử dụng điện thoại thông minh, 30% công việc kiểm toán trong các công ty, doanh nghiệp được thực hiện bằng trí tuệ nhân tạo, khoảng 80% hình ảnh người dân hiện diện số trên internet, (Khôi, 2018) 113 Tại Việt Nam, để chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực tận dụng các lợi thế, mặt khác giảm thiểu những tác động tiêu cực của CMCN 4.0, ngày 4/5/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0. Chỉ thị nêu rõ, cuộc CMCN 4.0 đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới. CMCN 4.0 với đặc điểm là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan toả của số hoá và công nghệ thông tin, làn sóng công nghệ mới này đang diễn ra với tốc độ khác nhau tại các quốc gia trên thế giới, nhưng đang tạo ra tác động mạnh mẽ, ngày một gia tăng tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất của xã hội. Đối với CNHT ngành điện tử Việt Nam, từ những phân tích trong phần thực trạng phát triển của CNHT cho ngành điện tử Việt Nam, một mặt, có thể nhận thấy rằng, một số kết quả từ hoạt động xuất khẩu, đổi mới về công nghệ và đổi mới tổ chức trong hoạt động sản xuất CNHT ngành điện tử có thể tạo ra những động lực tích cực ban đầu cho Việt Nam trong xu hướng tiếp cận cuộc CMCN mới. Mặt khác, sự hạn chế về số lượng, quy mô doanh nghiệp CNHT; hạn chế trong thu hút vốn đầu tư; những yếu kém trong quá trình đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức; sự liên kết yếu giữa ngành CNĐT chính và CNHT trong nước có thể khiến CNHT ngành điện tử gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu của CMCN 4.0. Bên cạnh đó, trong bối cảnh CMCN 4.0, mối quan hệ giữa phát triển CNHT với phát triển CNĐT sẽ chịu một số các tác động như sau: Về tác động tích cực: Thứ nhất, khả năng thu hút vốn FDI, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng chất lượng cao từ để phát triển ngành CNHT phục vụ cho CNĐT trong nước. Cùng với sự phát triển nhanh chóng về công nghệ, sự thay đổi về phương thức sản xuất, hợp tác, kết nối trong sản xuất và kinh doanh theo xu hướng CMCN 4.0, cácdoanh nghiệp CNHT phục vụ cho ngành CNĐT của Việt Nam có thể tận dụng để tiếp cận với các tiến bộ công nghệ tiên tiến trên thế giới một cách nhanh chóng, cũng như tăng cường khả năng tìm kiếm và thu hút các nguồn vốn đầu tư, nhân lực chất lượng cao, nhờ có hệ thống mạng kết nối toàn cầu. Thứ hai, CMCN 4.0 có khả năng thúc đẩy sự liên kết trên quy mô rộng lớn hơn, từ đó, tăng cường khả năng tham gia của CNHT và CNĐT Việt Nam vào chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng với các nền kinh tế lớn trên thế giới và các quốc gia có CNHT và CNĐT phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thứ ba, khả năng tăng năng suất, hiệu quả sản xuất của CNHT phục vụ cho ngành CNĐT nhờ việc đổi mới về quy trình sản xuất, cơ cấu lại tổ chức, tại các doanh nghiệp sản xuất CNHT để phù hợp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Thứ tư, các lực đẩy từ việc hoàn thiện chính sách, môi trường đầu tư, việc áp dụng các quy định về an toàn lao động, sẽ thúc đẩy việc nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp và sản phẩm CNHT phục vụ cho ngành điện tử. Thứ năm, cùng với sự phát triển của CMCN 4.0, CNHT và CNĐT Việt Nam sẽ tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của các đối tượng khách hàng. Về tác động tiêu cực: Thứ nhất, yêu cầu thay đổi lớn về cách thức sản xuất, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp với cách mạng 4.0 có thể là thách thức vô cùng lớn với các doanh 114 nghiệp CNHT ngành điện tử Việt Nam hiện nay. Do phần lớn các doanh nghiệp sản xuất CNHT tại Việt Nam hiện nay là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thiếu cả về vốn, công nghệ, cũng như các kỹ năng quản lý và điều hành sản xuất, vì vậy, yêu cầu thay đổi về cách thức sản xuất và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở dữ liệu để đáp ứng với xu hướng 4.0 sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp CNHT ngành điện tử trong tương lai, nhiều doanh nghiệp có thể đứng trước nguy cơ phá sản nếu không có sự đổi mới phù hợp. Thứ hai, lợi thế về lao động giá rẻ giảm, sự cắt giảm nhanh về nhu cầu lao động sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp CNHT ngành điện tử tại Việt Nam trong giai đoạn trước mắt. Thứ ba, sự cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn, trên phạm vi toàn cầu cùng với nguy cơ phá hủy đáng kể những chuỗi giá trị công nghiệp hiện có do sự xuất hiện những đối thủ cạnh tranh sáng tạo, nhanh nhạy nhờ tiếp cận với các nền tảng kỹ thuật số toàn cầu cho nghiên cứu, triển khai tiếp thị, bán hàng và phân phối, Thứ tư, những thách thức từ việc bảo mật thông tin. Do hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam còn nhiều hạn chế, vì vậy, cùng với việc tăng cường áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống mạng internet vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, có thể dẫn đến nhiều rủi ro của việc bị đánh cắp thông tin, đặc biệt là rò rỉ các thông tin tuyệt mật về hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp CNHT ngành điện tử. 4.4. Một số đề xuất giải pháp để thúc đẩy sự phát triển CNHT nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành điện tử Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0 Thứ nhất, tăng cường khả năng thực thi các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ cho doanh nghiệp sản xuất CNHT thông qua việc nhanh chóng ban hành các chính sách, thông tư hướng dẫn chi tiết hơn nhằm cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ về phát triển khoa học công nghệ chodoanh nghiệp CNHT. Thông qua hoạt động của các Trung tâm hỗ trợ, Hiệp hội doanh nghiệp CNHT để đưa chính sách gần hơn với doanh nghiệp sản xuất CNHT bằng các biện pháp trao đổi thông tin, hỗ trợ, tư vấn các điều kiện cần thiết để doanh nghiệp có thể tiếp cận chính sách. Thứ hai, nhanh chóng hoàn thiện, bổ sung nội dung chính sách phát triển khoa học công nghệ cho ngành CNHT gắn với xu thế của cuộc CMCN lần thứ tư. Trong đó, đặc biệt liên quan đến các chính sách khuyến khích phát triển công nghệ gắn với phát triển hệ thống công nghệ thông tin, ứng dụng mạng internet trong quản lý sản xuất, kinh doanh, tìm kiếm khách hàng, Ngoài ra, nội dung chính sách khoa học công nghệ cho ngành CNHT cũng cần bổ sung, hoàn thiện các chính sách tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển khoa học công nghệ ngành CNHT trong bối cảnh CMCN 4.0, thúc đẩy sự liên kết, trao đổi thông tin về công nghệ giữa các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia với các doanh nghiệp sản xuất CNHT trong nước. Thứ ba, tạo điều kiện để tiếp nhận các chuyên gia đến từ các nước có ngành CNHT phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, nhằm cung cấp các dịch vụ hướng dẫn về công nghệ, hướng dẫn về tiếp cận công nghệ mới, cũng như đào tạo, nâng cao trình độ về công nghệ cho đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp. Trong dài hạn, các trung tâm hỗ trợ, Hiệp hội cần nâng cấp về cơ sở vật chất cũng như trình độ chuyên môn để cung cấp các dịch vụ như kiểm định chất 115 lượng sản phẩm CNHT cho doanh nghiệp, hỗ trợ xây dựng, hiện đại hóa công nghệ sản xuất, là cầu nối để thu hút đầu tư vào công nghệ cho các doanh nghiệp CNHT trong nước. Thứ tư, chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho ngành CNHT. Một mặt, cần có chính sách thu hút đội ngũ chuyên gia, ví dụ như Nhật Bản hỗ trợ Việt Nam trong xây dựng ngành CNHT; mặt khác, chính sách cần tập trung hơn nữa trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp trong nước để tạo ra lực lượng nòng cốt cho phát triển CNHT, đáp ứng yêu cầu cung ứng cho các nhà lắp ráp trong nước và tham gia vào tiến trình CMCN 4.0. Việc đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực ngành Công nghiệp có thể được thực hiện thông qua hợp tác, liên kết với các tập đoàn lớn, đa quốc gia như Samsung; cần nâng cao hơn nữa tính liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp sản xuất, giữa doanh nghiệp sản xuất CNHT trong nước và các doanh nghiệp ngoài nước, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc, V. Kết luận Như vậy, có thể thấy rằng, cả lý thuyết và thực tiễn đều khẳng định vai trò của phát triển ngành CNHT đến sự phát triển của ngành CNĐT của Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, CNHT của Việt Nam vẫn trong tình trạng kém phát triển, chưa có đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngành CNĐT trong nước. Đặc biệt, trong bối cảnh CMCN lần thứ 4 đang đến rất gần và sẽ đưa đến rất nhiều các tác động cho mối quan hệ giữa phát triển CNHT và phát triển CNĐT, rất cần có sự nỗ lực trước tiên của Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp, để có thể tận dụng tốt những cơ hội của cuộc cách mạng trong việc thúc đẩy mối quan hệ tích cực giữa CNHT và CNĐT tại Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bình, T. T. C. (2010). Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện tử gia dụng ở Việt Nam. (Tiến sỹ LATS Kinh tế), ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Bộ Kế hoạch đầu tư. (2017). Báo cáo tổng kết hoạt động các mô hình khu công nghiệp, khu kinh tế (pp. 1-42). Hà Nội. Châu, H. V. (Ed.). (2010). Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam đến năm 2020. Hà Nội: Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông. Cục Thông tin KH&CN Quốc gia. (2016). Tổng luận "Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư". Retrieved 12/8, 2017, from %20CN%20lan%20thu%20tu.pdf Khôi, N. (2018). Việt Nam hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Retrieved 8/7, 2018, from cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu.html Phương, P. T. (2013). Thu hút FDI cho phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam. (tiến sỹ), Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, Việt Nam. Porter, M. (2012). Lợi thế cạnh tranh quốc gia (sách dịch) (N. N. Toàn, L. N. Hà, N. Q. Nga & L. T. Hải, Trans.). Hồ Chí Minh, Việt Nam: Nhà xuất bản Trẻ. Schwab, K. (2016). Cuộc cách mạng công nghiệp Lần thứ tư (pp. 20-76). 116 Thúy, N. T. X. (2007). Chương 2: Công nghiệp hỗ trợ: Tổng quan về khái niệm và sự phát triển. In K. Ohno (Ed.), Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam (pp. 29-52). Việt Nam: Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Trung tâm phát triển doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công nghiệp. (2015). Niên giám về Công nghiệp hỗ trợ các ngành chế tạo Việt Nam (pp. 174-179). Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động. Trung tâm phát triển doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công nghiệp. (2017). Niên giám về công nghiệp hỗ trợ các ngành chế tạo Việt Nam 2017-2018 (pp. 219 - 230). Hà Nội: Nhà xuất bản Công thương. Việt, H. V. (2014). Cơ sở lý thuyết và định hướng phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Chang, H.-J., Andreoni, A., & Kuan, M. L. (2013). International industrial policy experiences and the Lessons for the UK (pp. 10-20). UK: Foresight, Government Office for Science. Eiamkanitchat, R. (1999). The role of small and medium supporting industries in Japan and Thailand: APEC Study Center, Institute of Developing Economies. Ichikawa, K. (2004). Xây dựng và tăng cường ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam (pp. 13). Hà Nội. Inoue, R. (1998). Future prospects of Supporting Industries in ThaiLand and Malaysia. Mori, J. (2005). Development of Supporting Industries for Vietnam’s Industrialization: Increasing Positive Vertical Externalities through Collaborative Training. (Master), The Fletcher School, Tufts University. 117
File đính kèm:
- cong_nghiep_ho_tro_voi_phat_trien_nganh_cong_nghiep_dien_tu.pdf