Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát

Nghiên cứu cơ sở khoa học cho lai giống tràm bằng thụ phấn có kiểm soát cho thấy, tốc độ hoa tràm nở khá nhanh, sau 4 giờ tăng thêm 4-5 bông hoa nở, sau 9 giờ số bông hoa nở đã tăng lên gấp gần 4 lần, sau khoảng 20 giờ, tất cả các bông hoa trên một hoa tự của M. cajuputi đã nở gần như hoàn toàn. Hoa tràm bầu có 3 ô, bên trong chứa nhiều noãn; Núm nhụy ở trạng thái tiếp nhận hạt phấn thường sưng phồng, ướt và dính. Hạt phấn tràm có cấu trúc hình tam giác, 3 rãnh nổi rõ, bề rộng khoảng 16-25m. Trên môi trường M1 (30% đường mía+150ppm axic boric), hạt phấn của M. leucadendra có tỷ lệ nảy mầm đạt 81,59%, chiều dài ống phấn 500,24m và chỉ số nảy mầm 35641,7 phản ánh đúng nhất sức sống hạt phấn hay chất lượng hạt phấn tràm. Thụ phấn tự do có tỷ lệ đậu quả cao (80,23%), khử đực không thụ phấn và không khử đực để tự thụ phấn trong bao cách ly đều không có hiện tượng đậu quả (0%), và tự thụ phấn (cưỡng bức) phát hiện đậu quả với tỷ lệ thấp (4,17%). Hạt phấn LLA3 cất trữ 3 năm ở nhiệt độ -300C có tỷ lệ đậu quả 18,47%; Hạt phấn LNB1 cất trữ 1 năm ở nhiệt độ 40C có tỷ lệ đậu quả đạt 40,29%; Hạt phấn tươi, mới LNB01 và LNB02, có tỷ lệ đậu quả đạt tương ứng là 42,75 và 47,04%. Thời điểm thích hợp thụ phấn cho tỷ lệ đậu quả cao đối với một số loài tràm là ngày thứ 3 sau khử đực, tương ứng núm nhụy ở trạng thái tiếp nhận hạt phấn

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát trang 1

Trang 1

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát trang 2

Trang 2

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát trang 3

Trang 3

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát trang 4

Trang 4

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát trang 5

Trang 5

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát trang 6

Trang 6

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát trang 7

Trang 7

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát trang 8

Trang 8

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 2040
Bạn đang xem tài liệu "Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát

Cơ sở khoa học cho lai giống tràm (Melaleuca sp;) bằng thụ phấn có kiểm soát
00 35654,8
 30.000 25882,4
 2,8448
 20.000 y = 927,76x
 R2 = 0,9744
 8711,6
 10.000
 778,0
 0
 LLA3 LNB1 LNB01 LNB02
 Hình 4. Chỉ số nảy mầm của hạt phấn M. leucadendra trên môi trường M1 
 Số liệu trên biểu đồ hình 4 cho thấy, cùng nảy mầm thấp (778,0), hay nói cách khác hạt 
thời gian là 12 giờ trên môi trường M1, hạt phấn đã giảm sức sống khi cất trữ lâu ngày; 
phấn LLA3 cất trữ 3 năm mặc dù tỷ lệ nảy Hạt phấn LNB1 cất trữ 1 năm có chỉ số nảy 
mầm khá (54,71%), nhưng chiều dài của ống mầm 8711,6, vượt chỉ số nảy mầm của hạt 
phấn có trị số thấp (14,22m), nên có chỉ số phấn LLA3 là 11,19 lần; Hạt phấn tươi, mới 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2012 21
 C«ng nghÖ sinh häc & Gièng c©y trồng 
LNB02 có chỉ số nảy mầm cao nhất, vượt chỉ chất lượng hạt phấn M. leucadendra so với các 
số nảy mầm của hạt phấn LNB1 và LLA3 môi trường khác trong cùng thí nghiệm 
tương ứng là 4,09 và 45,82 lần. Mặc dù, chỉ số nảy mầm của hạt phấn 
 Ngoài ra, đường mô phỏng thể hiện quan hệ LNB02 và LNB01 trên môi trường M2 không 
giữa chỉ số nảy mầm với các nguồn hạt phấn đã cao bằng M1, nhưng vẫn vượt công thức đối 
làm rõ hơn cho những gì đã phân tích ở trên. chứng tương ứng là 2,7 và 1,6 lần. Điều này 
Chứng tỏ hạt phấn khác nhau, chỉ số nảy mầm chứng tỏ, Ca có ảnh hưởng đáng kể tới nảy 
cũng rất khác nhau, và giảm dần theo thời gian mầm của hạt phấn và sinh trưởng của ống phấn 
từ hạt phấn tươi, mới đến hạt phấn cất trữ lâu tràm, song với mức độ kém hơn so với Bo. Tuy 
ngày. Đây là lý do mà trên thực tế lai giống, nhiên, khi phối hợp cả Ca và Bo (M3), chỉ số 
mặc dù trước khi thụ phấn, hạt phấn đã được nảy mầm được cải thiện và vượt M2 tương ứng 
kiểm tra với tỷ lệ nảy mầm cao, nhưng tỷ lệ là 1,3 và 1,6 lần. Như vậy, nếu chỉ có Canxi, 
 sinh trưởng chiều dài của ống phấn chưa thể 
đậu quả lại không cao, nhất là với hạt phấn cất 
 hiện rõ, nhưng phối hợp cả Bo thì chiều dài 
trữ dài ngày, do chưa quan tâm tới chỉ số nảy 
 của ống phấn được tăng lên, do đó chỉ số nảy 
mầm của hạt phấn. Mặt khác, môi trường khác 
 mầm của hạt phấn cao hơn. 
nhau có chỉ số nảy mầm của hạt phấn cũng rất 
khác nhau. Cụ thể, trên môi trường M1, hạt 3. Ảnh hưởng của một số nhân tố đến tỷ 
phấn LNB02 có chỉ số nảy mầm cao nhất lệ đậu quả 
(35654,8), vượt chỉ số nảy mầm trên môi Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, tỷ lệ đậu quả 
trường ĐC, M2 và M3 tương ứng là 5,1; 1,9 và trong lai giống thường phụ thuộc vào phương 
1,4 lần. Thí nghiệm với hạt phấn LNB01 cũng thức thụ phấn, sức sống hạt phấn, thời điểm 
cho kết quả tương tự. Chứng tỏ môi trường có thụ phấn, cây mẹ, điều kiện môi trường và thao 
Bo, chỉ số nảy mầm của hạt phấn cao hơn so tác kỹ thuật thụ phấn 1,[3],[4],[5],[8],[12]. 
với môi trường chỉ có Canxi, hay phối hợp cả Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của phương 
Bo và Ca. Như vậy có thể nhận xét rằng, môi thức thụ phấn khác nhau đến tỷ lệ đậu quả 
trường M1 phản ánh đúng nhất sức sống hay được tổng hợp tại hình 5. 
 250
 210
 200
 177
 157
 150
 120
 100 80,23
 50
 0 0 4,17
 0
 Khử đực Tự thụ phấn Tự thụ phấn Thụ phấn phương thức
 không thụ phấn trong bao cách ly (cưỡng bức) tự do
 Số hoa thí nghiệm Tỉ lệ đậu quả (%)
 Hình 5. Ảnh hưởng của phương thức thụ phấn đến tỷ lệ đậu quả ở M. cajuputi 
 Số liệu trên biểu đồ hình 5 cho thấy, dụng bao cách ly trước và sau thụ phấn có 
phương thức thụ phấn khác nhau cho tỷ lệ đậu kiểm soát là hoàn toàn có tác dụng ngăn ngừa 
quả khác nhau. Cụ thể, thụ phấn tự do có tỷ lệ nhiễm phấn lạ do côn trùng, nhất là ong mật. 
đậu quả là 80,23%, khử đực không thụ phấn và Mặt khác, vì thiếu tác nhân truyền hạt phấn 
tự thụ phấn trong bao cách ly đều không đậu nên khử đực không thụ phấn trong bao cách ly 
quả (0%). Như vậy, không có hiện tượng đậu không có hiện tượng đậu quả. Tuy nhiên, tự 
quả ở phương thức khử đực không thụ phấn đã thụ phấn trong bao cách ly không đậu quả đã 
chứng tỏ rằng, việc khử đực là triệt để. Sử chứng tỏ rằng, nhị và nhụy của hoa chín không 
22 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2012 
 C«ng nghÖ sinh häc & Gièng c©y trồng 
trùng nhau, hay thời điểm tung hạt phấn không Kết quả nghiên cứu ở phần trên đã cho thấy, 
trùng với thời điểm núm nhụy chín. Nói cách sức sống của hạt phấn giảm từ hạt phấn tươi, 
khác, nhị và nhụy luôn phát triển lệch xa nhau mới đến hạt phấn cất trữ lâu ngày. Theo đó, sử 
với mục đích tránh thụ phấn cùng hoa. dụng hạt phấn tươi, mới để lai giống có thể thu 
 Trong nghiên cứu này đã sử dụng hạt phấn được hiệu quả cao, dùng hạt phấn cất trữ lâu 
tươi, mới của Tràm cajuputi thu thập ngay năm, hiệu quả có thể sẽ rất thấp. Tuy nhiên, tỷ 
trước khi thụ phấn của 2 cây mẹ (CaĐL11 và lệ đậu quả trên thực tế khi lai giống từ chính 
CaĐL12), đem đặt (bôi) lên núm nhụy đã chín nguồn hạt phấn nêu trên mới là kết quả phản 
cho những bông hoa khác (đã được chụp bao ánh chính xác nhất. Trong nghiên cứu này, xác 
cách ly) của chính 2 cây mẹ tương ứng, kết quả định ảnh hưởng của các nguồn hạt phấn đến tỷ 
phát hiện tỷ lệ đậu quả trung bình là 4,17% lệ đậu quả trong quá trình lai giống tràm được 
(Hình 5). Chứng tỏ, do cấu trúc, sự phát triển tổng hợp tại hình 6. Kết quả cho thấy cùng cây 
lệch nhau giữa nhị và nhụy hoa, và một cơ chế mẹ (CaĐL12) nhưng nguồn hạt phấn khác 
thụ phấn, thụ tinh riêng biệt, mà tự thụ phấn nhau có tỷ lệ đậu quả khác nhau. Cụ thể, hạt 
mặc dù có xảy ra ở M. cajuputi, nhưng đã được phấn cất trữ 3 năm ở nhiệt độ -300C (LLA3), 
giảm thiểu. Từ kết quả nghiên cứu trên có thể có tỷ lệ đậu quả 18,47%; Hạt phấn cất trữ 1 
cho phép nghĩ rằng, cả tự thụ phấn và thụ phấn năm ở nhiệt độ 40C (LNB1), có trị số đậu quả 
chéo đều có thể cùng đồng thời xảy ra trong 40,29%, vượt 2,18 lần so với hạt phấn LLA3; 
thực tế đối với M. cajuputi. Nói cách khác, Hạt phấn tươi, mới LNB01 và LNB02, đậu quả 
tràm là cây tự thụ phấn (4,17%), nhưng hệ có trị số lần lượt là 42,75 và 47,04%, vượt so 
thống hoa của chúng cũng xúc tiến thụ phấn với sử dụng hạt phấn đã cất trữ 1 năm và 3 
chéo với một tỷ lệ cao (trên 95%). Như vậy, năm tương ứng là 1,16 và 2,54 lần. Chứng tỏ tỷ 
gia tăng thụ phấn chéo để tạo ra các thể dị hợp lệ đậu quả phụ thuộc chặt chẽ vào sức sống hạt 
tử đã giúp cho cây tràm có khả năng thích ứng phấn, giảm dần từ hạt phấn tươi, mới đến hạt 
rộng và sinh trưởng tốt. phấn cất trữ lâu ngày. 
 350
 304
 300 278
 250
 y = 5,1809x1,5502
 200 R2 = 0,9301
 157
 150 138
 120
 100
 47,04
 40,29 42,75
 50
 18,47
 4,17
 0
 Tự thụ phấn LLA3 LNB1 LNB01 LNB02
 Số hoa TN Tỉ lệ đậu quả (%) Power (Tỉ lệ đậu quả (%))
 Hình 6. Tỷ lệ đậu quả ở M.cajuputi với các nguồn hạt phấn khác nhau 
 Kết quả kiểm tra thống kê ảnh hưởng của quá trình lai giống tràm. Chứng tỏ, sử dụng hạt 
nguồn hạt phấn đến tỷ lệ đậu quả khi lai giống phấn tươi, mới có chỉ số nảy mầm cao, thì 
 2 2 cũng có tỷ lệ đậu quả cao. Ngược lại, sử dụng 
tràm cho thấy n = 95,55 > 05 = 9,49. Như 
vậy, có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ đậu quả khi hạt phấn cất trữ lâu ngày, có chỉ số nảy mầm 
sử dụng các nguồn hạt phấn khác nhau trong thấp, thì cũng thu được trị số đậu quả thấp. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2012 23
 C«ng nghÖ sinh häc & Gièng c©y trồng 
 Nhiều nghiên cứu lai giống cây rừng cho điểm sau khử đực 1 ngày núm nhụy còn nhỏ, 
thấy, khi núm nhụy đã chín thì tính lựa chọn màu xanh. Thời điểm sau khử đực 3 ngày, núm 
thụ tinh là mạnh nhất, còn khi núm nhụy đã già nhụy sưng phồng và ướt. Thời điểm sau khử 
hoặc non thì ngược lại [1],[4],[5],[7],[12]. Nói đực 6 ngày, núm nhụy teo lại, màu nâu sẫm và 
cách khác, núm nhụy ở trạng thái tiếp nhận hạt khô héo, chắc chắn không thể tiếp nhận hạt 
phấn hay đã chín, thụ phấn thường cho tỷ lệ phấn được. Kết quả ảnh hưởng của thời điểm 
đậu quả cao hơn. Kết quả quan sát dưới kính thụ phấn đến tỷ lệ đậu quả khi lai giống tràm 
lúp tại hiện trường lai giống cho thấy, thời được tổng hợp tại hình 7. 
 %
 80 75,5
 70
 60
 37,0
 50
 40
 30 17,6 19,8
 20
 10 0 0
 0
 -10 1 2 3 4 5 6 Ngày
 -20
 Ca x L L x Ca V x L Poly. (V x L)
 Hình 7. Tỷ lệ đậu quả theo số ngày thụ phấn sau khử đực 
 Số liệu trên biểu đồ hình 7 cho thấy, cùng thời điểm thụ phấn, cây mẹ cũng có ảnh 
một phép lai nhưng tại các thời điểm thụ phấn hưởng rất lớn đến tỷ lệ đậu quả. Nói cách 
khác nhau có tỷ lệ đậu quả cũng rất khác nhau. khác, khả năng lai giống phụ thuộc vào từng 
Cụ thể, phép lai giữa M. viridiflora với M. cặp bố mẹ và thời điểm cụ thể. 
leucadendra tại thời điểm 1 ngày sau khử đực 
không có tỷ lệ đậu quả (0%), tỷ lệ đậu quả tăng IV. KẾT LUẬN 
dần từ ngày thứ 2 (17,6%) và đạt đỉnh ở ngày 1. Tốc độ hoa tràm nở khá nhanh, sau 4 giờ 
thứ 3 (75,5%), vượt trước và sau đó 1 ngày 
 tăng thêm 4-5 bông hoa nở, sau 9 giờ số bông 
tương ứng 4,28 và 2,04 lần. Ở các phép lai 
 hoa nở đã tăng lên gấp gần 4 lần, và sau 
khác trong cùng thí nghiệm cũng cho kết quả 
tương tự. Chứng tỏ, ngày thứ 3 sau khử đực, khoảng 20 giờ, tất cả các bông hoa trên một 
núm nhụy ở giai đoạn thành thục, hay ở trạng hoa tự của M. cajuputi đã nở gần như hoàn 
thái tiếp nhận hạt phấn, thời điểm tốt nhất cho toàn. Hoa tràm bầu có 3 ô, bên trong chứa 
thụ phấn đạt tỷ lệ đậu quả cao. nhiều noãn; Núm nhụy ở trạng thái tiếp nhận 
 Ngoài ra, cùng nguồn hạt phấn nhưng cây hạt phấn thường sưng phồng, ướt và dính. 
mẹ khác nhau, tỷ lệ đậu quả cũng khác nhau. 2. Hạt phấn tràm có cấu trúc hình tam giác, 
Cụ thể, cùng nguồn hạt phấn thu từ cây bố của 3 rãnh nổi rõ, bề rộng khoảng 16-25m. Trên 
M. leucadendra, thụ phấn cho cây mẹ của M. môi trường M1 (30% đường mía+150ppm axic 
cajuputi có tỷ lệ đậu quả chỉ đạt thấp (31,4%), 
 boric), hạt phấn của M. leucadendra có tỷ lệ 
trong lúc đem thụ phấn cho cây mẹ của M. 
 nảy mầm đạt 81,59%, chiều dài ống phấn 
viridiflora thu được tỷ lệ đậu quả cao 
(75,5%), vượt 2,4 lần so với thụ phấn cho cây 500,24m và chỉ số nảy mầm 35641,7 phản 
mẹ của M. cajuputi trong cùng thí nghiệm. ánh đúng nhất sức sống hạt phấn hay chất 
Chứng tỏ, ngoài hạt phấn, phương thức và lượng hạt phấn tràm. 
24 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2012 
 C«ng nghÖ sinh häc & Gièng c©y trồng 
 3/ Thụ phấn tự do có tỷ lệ đậu quả cao tràm”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn 
 (80,23%), khử đực không thụ phấn và không (11), tr.91 - 96. 
 5. Baskorowati, L.(2006), Controlled Pollination 
 khử đực để tự thụ phấn trong bao cách ly đều Methods for Melaleuca alternifolia (Maiden & Betch) 
 không đậu quả (0%), và tự thụ phấn (cưỡng Cheel, Canberra, ACIAR Technical Reports No.63, 
 bức) phát hiện đậu quả với trị số thấp (4,17%). www.aciar.gov.au 
 Hạt phấn LLA3 cất trữ 3 năm ở nhiệt độ - 6. Chahal,G.S.and Gosal,S.S.(2002), Principle and 
 Procedures of Plant Breeding Biotechnology and 
 300C có tỷ lệ đậu quả 18,47%; Hạt phấn LNB1 
 0 Conventional Approches, Narasa Publishing House, 
 cất trữ 1 năm ở nhiệt độ 4 C có tỷ lệ đậu quả New Delhi Chennai Mumbai Kolkata. 
 đạt 40,29%; Hạt phấn tươi, mới LNB01 và 7. Doran, J.C., Baker, G.R., Williams, E.R. and 
 LNB02, có tỷ lệ đậu quả đạt tương ứng là Southwell, I.A. (2002), Improvement Australia Tea Tree 
 42,75 và 47,04%. through Selection and Breeding (1996-2001), Project 
 DAN 151A, Publishcation No. 02/017 RIRDC. 
 Thời điểm thích hợp thụ phấn cho tỷ lệ đậu 8. Munger, Gregory T. (2005), Melaleuca 
 quả cao đối với một số loài tràm là ngày thứ 3 quinquenervia. In: Fire Effects Information System, 
 sau khử đực, tương ứng núm nhụy ở trạng thái U.S. Department of Agriculture, Forest Service, Rocky 
 tiếp nhận hạt phấn. Mountain Research Station, Fire Sciences Laboratory. 
 9. Serbesoft-king Kristina (2003), “Melaleuca in 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO Florida: A Litterature Review on the Taxonomy, 
 Distribution, Biology, Ecology, Economic Impertance 
 1. Lê Đình Khả (2006), Lai giống cây rừng 
 and Control Measures”, J. Aqual. Plant Manage (41), 
(Hybridization of Forest Tree), Nxb Nông nghiệp, Hà pp. 98 -112, South Florida Water Management District. 
Nội. 10. Shivanna, K.R. and Rangaswamy, N.S. (1992), 
 2. Hoàng Vũ Thơ (2008), Tổng quan về cây tràm, 
 Pollen biology A Laboratory Manual, Springer-Verlag 
Báo cáo chuyên đề tiến sĩ, Viện Khoa học Lâm nghiệp 
 Berlin Heideberg New York London Paris Tokyo 
Việt Nam, Hà Nội. 
 Hongkong Barcelona Budapest. 
 3. Hoàng Vũ Thơ, Trần Bình Đà, Phạm Đức Tuấn 
 11. Turnbull, J.W. (1986), Multipurpose Australian 
(2009), “Nghiên cứu môi trường nảy mầm hạt phấn tràm Tree and Shrubs Lesser-kmown Species for Fuelwood 
lá dài”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, and Agroforestry, Australian Centre for International 
(3), tr.95 - 100. 
 Agricultural Research Canberra. 
 4. Hoàng Vũ Thơ, Nguyễn Việt Cường (2009), “Ảnh 
 12. Zobel, B. and J. Talbert (1984), Applied Forest 
hưởng của một số nhân tố đến tỷ lệ đậu quả khi lai giống 
 Tree Improvement, John Wiley and Sons, New York. 
 SCIENTIFIC BASES FOR CROSSING THE Melaleuca sp; 
 BY CONTROLLED POLLINATION 
 Hoang Vu Tho 
SUMMARY 
 Research scientific bases for crossing the Melaleuca sp; by controlled pollination show that, the blossoming rate of 
Melaleuca is pretty fast, during some 4 hours increased 4-5 blossomed out, during 9 hour the flowers doubled 4 times, 
and during some 20 hours, all the flowers of a blossom cluster of M. cajuputi have completely blossomed out. The 
flower of Melaleuca is 3 ovarium, its containing many ovulate, the stigma at accepting state or has matured is 
swelling, wet and sticky. The pollen grain has triangular structure, 16 to 25m wide. The best one among the culture 
medium for pollen germination of M.leucadendra is M1 (30% sucrose +150 ppm boric acid). In this medium after 12 
hours, the pollen could get a germination rate of 81.59% with pollen tube length 500.24m and its index of 35641.7. 
Different patterns of pollination obtained different rates of setting fruit, natural pollination obtained these high figures 
(80.23%). The flowers emasculated without pollination as well as self-pollination in isolated bag even without 
emasculating failed utterly setting fruit (0%). Compulsory self-pollination obtained the figures by 4.17%. Setting fruit 
rate depends closely on pollen vitality; e.g. the pollen grains LLA3 after 3 year-storage at low temperature -300C 
remained the rate of setting fruit by 18.47%; the pollen grains LNB1after 1 year-storage at temperature 40C remained 
by 40,29%; while for the fresh pollen grains LNB01 and LNB02 that of by 42.75% and 47.04% respectively. The time 
fit for pollination of high setting fruit for those species involved in the hybridization is at 3 days after emasculated, 
corresponding to the time at which stigmas have matured or being well at accepting state. 
 Keywords: Crossing the Melaleuca, Controlled Pollination, Fruit Setting Rate, Pollen Germination. 
 Người phản biện: PGS.TS. Nguyễn Hữu Vĩnh, ThS. Hồ Văn Giảng 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2012 25

File đính kèm:

  • pdfco_so_khoa_hoc_cho_lai_giong_tram_melaleuca_sp_bang_thu_phan.pdf