Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Phong trào khởi nghiệp đang diễn ra hết sức sôi nổi và mạnh mẽ tại Việt Nam với

nhiều doanh nghiệp được thành lập thông qua đổi mới sáng tạo. Cách mạng công nghiệp 4.0

đang được các doanh nghiệp khởi nghiệp (startup) nắm bắt nhanh, nhưng nếu không có sự

đầu tư, tìm hiểu theo chiều sâu và sự chuẩn bị kỹ thì làn sóng này cũng sẽ chỉ dừng lại ở

phong trào bề nổi. Việc nắm bắt công nghệ như thế nào, tận dụng được bao nhiêu để phát

triển thị trường mới là điều quan trọng. Bài viết thông qua phân tích thực trạng doanh

nghiệp khởi nghiệp Việt Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp giúp doanh nghiệp khởi nghiệp

Việt Nam thành công trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 1

Trang 1

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 2

Trang 2

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 3

Trang 3

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 4

Trang 4

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 5

Trang 5

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 6

Trang 6

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 7

Trang 7

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 8

Trang 8

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 9

Trang 9

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 1920
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Cơ hội và thách thức doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
 cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 khi khả năng kết nối IoT gia tăng 
cùng với nhiều ứng dụng, điều kiện phụ trợ khác trở nên sẵn có hơn. Thực tế này phản ánh 
đúng khởi nghiệp theo xu hướng phát triển về công nghệ như: lĩnh vực công nghệ thông tin 
không cần quá nhiều vốn đầu tư ban đầu so với ngành nghề khác; chủ yếu dựa vào ý tưởng 
mới, mang tính sáng tạo cao và có thể là sản phẩm/dịch vụ có mức tăng trưởng nhanh; có thể
dễ dàng kết nối toàn cầu qua công nghệ IoT giúp cho các ý tưởng sáng tạo dễ dàng đến được
với thế giới và ngược lại, doanh nghiệp cũng dễ dàng học hỏi được từ các mô hình thành 
công khác của quốc tế. Mặc dù có sự tăng trưởng tương đối mạnh mẽ, nhưng các doanh 
nghiệp khởi nghiệp cũng gặp không ít khó khăn.
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư rót vào doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam vẫn tương 
đối khiêm tốn so với khu vực và trên thế giới. Theo Tech in Asia, năm 2017, khu vực Đông 
Nam Á đã thu hút 7,86 tỷ USD đầu tư vào khởi nghiệp, như vậy số vốn đầu tư Việt Nam thu 
hút được chiếm tỷ phần rất nhỏ chưa đến 5%. Nguồn vốn dành cho khởi nghiệp ở Việt Nam 
thấp hơn so với các nước trong khu vực do các nhà đầu chưa thấy được sự an toàn, cũng như 
cơ hội bền vững trong khởi nghiệp tại Việt Nam. Có thể nhận thấy, mặc dù thấy được cơ hội
khởi nghiệp tại Việt Nam đã tăng nhưng vẫn còn thấp so với mức bình quân 55,6% của các 
quốc gia tương tự như Việt Nam. Đáng nói hơn, văn hóa chấp nhận thất bại, rủi ro trong kinh 
doanh của các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam dù chưa cao, nhưng có xu hướng gia tăng. 
Chính điều này cũng khiến các quỹ đầu tư ngại ngần rót vốn. Ngoài ra, những hành lang pháp 
lý còn trống vẫn chưa được hoàn thiện. Cụ thể, một trong những vấn đề pháp lý được kỳ
vọng hoàn thiện, đó là quy định cụ thể cho hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm vẫn chưa 
được hoàn thành. Việc chậm hoàn thiện hành lang pháp lý cho quỹ khiến thị trường khởi
nghiệp càng mất thêm lợi thế cạnh tranh với các nước trong khu vực, đặc biệt là Singapore. 
Nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đang lựa chọn thành lập pháp nhân ở Singapore thay vì Việt
257
Nam, chính là bởi các quỹ đầu tư ở đây hoạt động thuận lợi hơn, với khung pháp lý rõ ràng 
nên rót vốn nhanh hơn và ổn định hơn Việt Nam. 
Thứ hai, môi trường pháp lý ở Việt Nam không những kém cạnh tranh hơn so với các 
nước trong khu vực mà còn đưa ra một số quy định có thể tạo ra gánh nặng chi phí lớn hơn 
cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Điển hình là việc áp dụng quy định về đóng bảo hiểm xã hội
trên toàn bộ thu nhập của người lao động ngay từ năm 2018. Với các doanh nghiệp khởi
nghiệp trong lĩnh vực công nghệ, chi phí nhân sự chiếm hầu như toàn bộ chi phí chính của
doanh nghiệp. Khác với các lĩnh vực sản xuất khác – nơi tỷ trọng chi phí cho con người là 
thấp hơn, các ngành liên quan đến công nghệ sẽ bị ảnh hưởng lớn khi quy định về đóng bảo
hiểm đi vào thực thi. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực phần mềm, nội
dung số sử dụng nhiều lao động đã phải tính đến việc lách luật bằng cách ký hợp đồng thuê 
lao động từ một bên thứ ba. Thực chất, bên thứ ba này có thể là một pháp nhân do chính họ
lập ra, tuy nhiên, bằng hợp đồng thuê nhân công theo thời vụ, họ giảm bớt được chi phí đóng 
bảo hiểm cho nhân viên. Ngoài ra, môi trường pháp lý ở Việt Nam chưa tạo ra tính linh hoạt
và cởi mở trong việc tạo ra các ‘ưu đãi’ về mặt pháp lý nhằm thu hút doanh nghiệp khởi
nghiệp như tại các quốc gia trong khu vực. Chẳng hạn, Singapore sẵn sàng giúp doanh nghiệp
khởi nghiệp giảm thiểu rủi ro pháp lý trong quá trình thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ mới
nằm ngoài khuôn khổ quy định hiện hành – tức không phải là ‘phá luật’ mà là thử nghiệm các 
sản phẩm, dịch vụ mà pháp luật chưa điều chỉnh đến do sản phẩm, dịch vụ đặt ra là chưa có 
tiền lệ. Ví dụ, chính phủ nước này cho phép các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực
công nghệ tài chính (Fintech) được thử nghiệm hoạt động trong một vùng quy định riêng –
gọi là ‘regulatory sandbox’ – để thai nghén và phát triển các sản phẩm mới – vốn chưa tương 
thích, chưa có các quy định có sẵn. 
Thứ ba, hệ thống chính sách hỗ trợ khởi nghiệp tại Việt Nam còn thiếu, chưa đồng bộ
và còn tồn tại nhiều xung đột, mâu thuẫn. Các quy định chủ yếu còn mang tính chung chung 
258
như hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, tham gia mua sắm, cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ đào tạo 
Phần lớn các chính sách này có phạm vi đối tượng rộng, dàn trải với đối tượng được hỗ trợ là 
gần như toàn bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà chưa có sự định hướng riêng cho nhóm đối
tượng đặc thù, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp. Mặc dù khi cụ thể hóa các quy định, 
hướng dẫn để triển khai hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp trên địa bàn các địa phương đã rõ ràng 
hơn, song phần lớn các quy định, hướng dẫn vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu về tính cụ thể,
đặc biệt là đối với việc thu hẹp, tập trung vào các nhóm đối tượng nhất định. Ngoài ra, tính 
khả thi và chính sách hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp còn rất hạn chế. Cụ thể: định mức hỗ trợ
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đã được quy định khá rõ trong các nghị định, tuy nhiên hai 
vấn đề ảnh hưởng tới tính khả thi của các chính sách hỗ trợ tài chính, đầu tư là: Tiêu chí lựa
chọn và sự phối hợp của các cơ quan nhà nước vẫn chưa rõ ràng; Cổng thông tin quốc gia về
khởi nghiệp đã chính thức ra đời nhưng các nội dung, thông tin và tính liên kết đến các cổng 
thông tin liên quan còn hạn chế. Vẫn thiếu các thông tin liên quan để kết nối các tổ chức hỗ
trợ khởi nghiệp và các nhà khởi nghiệp. Một số hoạt động như TechFest 2017 đã được triển
khai và đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên do kinh phí hạn chế nên các hỗ trợ thực
chất cho doanh nghiệp khởi nghiệp; Hướng dẫn cụ thể về hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khởi
nghiệp từ nguồn ngân sách nhà nước chưa được ban hành, vì vậy các hoạt động hỗ trợ khởi
nghiệp từ các quỹ có nguồn gốc ngân sách gần như chưa thể triển khai. 
Thứ tư, tỷ lệ nhân lực khoa học và công nghệ còn thấp nên việc thực hiện đổi mới
sáng tạo là rất hạn chế. Một trong những yếu tố quyết định việc doanh nghiệp mới thành lập
có phải là doanh nghiệp khởi nghiệp hay không, chính là trình độ công nghệ làm nền tảng cho 
tính đổi mới sáng tạo. Trình độ nhân lực về khoa học và công nghệ góp phần quan trọng tạo
điều kiện cho hoạt động khởi nghiệp. Các nước có trình độ công nghệ cao cũng thường là 
những quốc gia có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp thành công. Tại Việt Nam, đội ngũ nhân 
lực khoa học và công nghệ tuy có phát triển về số lượng nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu 
259
cầu, thiếu các tập thể khoa học mạnh, các viện nghiên cứu, trường đại học đẳng cấp quốc tế,
thiếu các cán bộ đầu ngành; cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị nghiên cứu còn thiếu, 
chưa đồng bộ, khó có năng lực thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ thực tiễn đặt
ra. Trình độ khoa học và công nghệ quốc gia nhìn chung còn tụt hậu xa so với thế giới, kể cả
với một số nước nhóm đầu trong khu vực Đông Nam Á.
3. Giải pháp giúp doanh nghiệp khởi nghiệp thành công trong bối cảnh Cách mạng 
Công nghiệp 4.0
Trước làn sóng khởi nghiệp và sáng tạo, chính phủ cần tạo điều kiện để phong trào 
khởi nghiệp ngày càng phát triển. Một quốc gia có trình độ đổi mới sáng tạo cao sẽ có nhiều
cơ hội tham gia sân chơi lớn. Khởi nghiệp châm ngòi sức sáng tạo, do đó việc thôi thúc 
phong trào khởi nghiệp bùng cháy đang là quyết tâm chung của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện
nay, môi trường và các điều kiện cho khởi nghiệp, gồm hệ thống khung pháp luật, các chính 
sách hỗ trợ, quỹ đầu tư mạo hiểm giúp bảo đảm tính ổn định và độ sẵn sàng vẫn còn gặp
nhiều vướng mắc. Để cải thiện và nâng cao chất lượng hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, nhà 
hoạch định chính sách có thể tham khảo một số khuyến nghị sau: 
Cải thiện hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
Đây chính là yêu cầu bức thiết nhất, giúp cộng đồng khởi nghiệp Việt Nam vươn lên 
và phát triển mạnh mẽ. Chính phủ ngoài việc tạo cơ sở pháp lý vững chắc, cải tiến, đổi mới
và xây dựng hành lang pháp lý minh bạch, rõ ràng còn cần phải có những hành động cụ thể
như: đào tạo và xây dựng đội ngũ công chức nơi giải quyết các thủ tục cho doanh nghiệp với
đủ đức và tài để giúp các dự án khởi nghiệp được thực hiện một cách thuận lợi hơn. Ngoài ra, 
chính phủ cần cải thiện hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp chính thức một cách bài bản hơn nhằm
khắc phục tất cả các hạn chế đã nêu. Vấn đề chính cần giải quyết ngay là phân cấp thực hiện
chính sách một cách cụ thể, rõ ràng hơn. Đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng như: đơn giản hóa thủ tục pháp lý về đăng ký, về lao động, thanh kiểm
260
tra đối với các doanh nghiệp nhằm giảm bớt gánh nặng pháp lý và chi phí tuân thủ cho doanh 
nghiệp này để họ tập trung vào kinh doanh. 
Thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp nhằm giúp doanh 
nghiệp có thêm nguồn lực tài chính để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, giảm bớt phụ
thuộc vào vốn vay ngân hàng, tiết kiệm được chi phí kinh doanh, từ đó giảm giá thành, góp 
phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư. Cụ thể, đối với doanh nghiệp khởi
nghiệp cho phép miễn thuế thu nhập từ 3-5 năm đầu kể từ khi thành lập doanh nghiệp (giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh đầu tiên), sau đó áp dụng mức thuế suất ưu đãi thấp hơn mức
thuế suất phổ thông hiện hành đang áp dụng đối doanh nghiệp nhỏ và vừa; Đối với nhà đầu
tư/tổ chức đầu tư tại các doanh nghiệp khởi nghiệp, các khoản thu nhập từ chuyển nhượng 
vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn tại doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo của các nhà đầu tư 
được miễn thuế trong trường hợp đầu tư tại thời điểm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
chưa có lợi nhuận tính thuế.
Hoàn thiện khung pháp lý, chính sách khuyến khích, hỗ trợ nhà đầu tư thành lập
và vận hành các quỹ đầu tư mạo hiểm 
Chính phủ cần tạo một hành lang pháp lý để khuyến khích chính khu vực tham gia 
đầu tư vào khởi nghiệp sáng tạo. Từ kinh nghiệm của một số nước cho thấy, các nước đều có 
nhiều chính sách ưu đãi dành cho các cá nhân đầu tư cho khởi nghiệp, nhằm thu hút các nhà 
đầu tư tham gia và làm sôi động thị trường đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Ưu đãi 
giảm thuế thu nhập cá nhân là một trong những biện pháp phổ biến nhất để khuyến khích cá 
nhân đầu tư. Ngoài ra, Nhà nước có thể đối ứng vốn đầu tư với nhà đầu tư nhằm giảm tỷ lệ
rủi ro cho nhà đầu tư, đồng thời, tăng nguồn vốn mạo hiểm cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp ở giai đoạn đầu. Hơn nữa, chính phủ cũng tạo điều kiện để phát triển các kênh trung 
gian gọi vốn cộng đồng để nhà đầu tư có thể tiếp cận nguồn thông tin khởi nghiệp một cách 
nhanh chóng, rõ ràng, minh bạch hơn.
261
Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng cho doanh nghiệp
Việt Nam có rất nhiều tài nguyên lãng phí, trong khi những tài nguyên đó có thể hỗ
trợ được doanh nghiệp khởi nghiệp. Đặc biệt trong thời điểm hiện tại, bất động sản đang dư 
thừa thì nếu ở nước ngoài họ đã quy hoạch rất nhiều các khu bất động sản để dành cho các 
doanh nghiệp khởi nghiệp. Ví dụ như ở Trung Quốc, Singapore, Malaysia họ quy hoạch ra 
những các khu tương đối là trung tâm (giống như các nhà máy cũ mà người ta di rời ra khu 
trung tâm và sử dụng lại nguồn đất này) để biến khu này thành khu khởi nghiệp. Họ cho các 
doanh nghiệp khởi nghiệp vào đó thuê với giá rất là rẻ, họ trang bị vào đó một cách tốt nhất
cho hạ tầng (điện, nước, internet) thì các doanh nghiệp khởi nghiệp làm việc ở trong đó 
mới có cơ hội để mà phát triển bởi vì doanh nghiệp khởi nghiệp xuất phát là không có tiền. 
Nếu chúng ta có chỗ như vậy thì doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ được nuôi dưỡng và phát triển.
Ngoài ra, để giảm chi chi cho doanh nghiệp chính phủ cung cấp cơ sở hạ tầng như văn phòng 
làm việc, dịch vụ viễn thông, thiết bị kỹ thuật, dịch vụ văn phòng miễn phí hoặc chi phí thấp
hơn so với giá thị trường. 
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thông qua 
việc thay đổi cách tiếp cận giáo dục, phát triển năng lực sáng tạo và kỹ năng khởi nghiệp của
người học; hỗ trợ sự liên kết hợp tác thuận lợi giữa các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp và doanh 
nghiệp để cung cấp một môi trường thực hành cao giúp người học tiếp cận các xu thế phát 
triển cũng như đáp ứng yêu cầu công việc sau tốt nghiệp. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần đầu tư 
nghiên cứu, tiếp cận nhanh hơn nữa với xu hướng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực như 
vật liệu mới, năng lượng mới, kỹ thuật số, công nghệ thông tin, tự động hóa và trí tuệ nhận
tạo, công nghệ sinh học Việt Nam cần có chiến lược để xây dựng bằng được các nhóm 
nghiên cứu mạnh, các viện nghiên cứu tiên tiến, các trung tâm xuất sắc trong các lĩnh vực
này; Cần sớm có chiến lược, giải pháp cụ thể để phát triển các ngành tự động hóa tích hợp
262
với các công nghệ cao như công nghệ thông tin, chuỗi cung ứng thông minh, sử dụng hệ
thống quản lý sở hữu trí tuệ mới, tối ưu hóa mô hình kinh doanh với việc nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tạo không gian sáng tạo 
Trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0 diễn ra nhanh và mạnh, vấn đề khởi
nghiệp cần được đánh giá một cách đầy đủ hơn với nhiều đặc tính mới, đặc biệt là khi đánh 
giá vấn đề đó cần chú trọng tới khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Yếu tố đổi mới sáng tạo chính 
là mấu chốt của vấn đề này để xác định đúng doanh nghiệp khởi nghiệp và có các chính sách 
khuyến khích phù hợp giúp cho các doanh nghiệp này thực sự đi đúng hướng và tranh thủ
được các cơ hội của bối cảnh phát triển mới. Do vậy, khởi nghiệp cần phải tạo nên văn hóa 
mới trong công ty sao cho từng thành viên phát huy và thể hiện năng lực của mình tốt hơn ở
bất cứ môi trường nào khác. Việc này không hề đơn giản. Văn hóa là thứ khó định hình, nó
đòi hỏi kỹ năng lãnh đạo, quy trình, tuyển dụng, môi trường và nhiều yếu tố khác. Việc tạo
một môi trường mà mọi người thích thú và thoải mái làm việc cùng nhau sẽ có thể làm tăng 
sự sáng tạo của đội ngũ nhân viên. Đây là sự đầu tư nghiêm túc để xây dựng văn hóa công ty,
sự sáng tạo không thể tồn tại trong môi trường văn hóa nghèo nàn.
Tài liệu tham khảo
1. GIZ (2012), “Start-up promotion instruments in OECD countries and their application 
in developing countries”.
2. Hương Quỳnh (2017), “Không để lỡ tàu khi bước vào cách mạng công nghiệp 4.0”, 
cong-nghiep-4-0-364863.html. 
263
3. Lương Minh Huân, Nguyễn Thị Thùy Dương (2016), “Thực trạng đầu tư cho Khoa 
học và Công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt
Nam, số 9A.
4. Nghị định số 38/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp
sáng tạo. 
5. Thành Đạt (2017), “Cách mạng 4.0 và bàn tay Chính phủ”, 
6. Trần Văn Phát (2017), “Văn hóa doanh nghiệp thời 4.0”, 
https://doanhnhansaigon.vn/goc-nha-quan-tri/van-hoa-doanh-nghiep-thoi-4-0-
1079864.html. 
7. VCCI (2017), “Báo cáo nghiên cứu cơ chế hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo. Kinh 
nghiệp quốc tế - Đề xuất giải pháp cho Việt Nam”;
264

File đính kèm:

  • pdfco_hoi_va_thach_thuc_doanh_nghiep_khoi_nghiep_trong_boi_canh.pdf