Cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập tại một số tỉnh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Để nắm bắt tình hình thực tế triển khai thực hiện cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL), tác giả đã tiến hành nghiên cứu hiện trạng ở một số tỉnh ở Việt Nam nhằm đưa ra được những kết quả tích cực cũng như những hạn chế khi thực hiện cơ chế tự chủ ở các ĐVSNCL, từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế tự chủ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập tại một số tỉnh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập tại một số tỉnh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
ho y tế giai đoạn 2006-2018 Đơn vị: Tỷ đồng Năm Tổng chi thường xuyên của ngân sách thành phố Chi cho y tế Tỷ lệ 2006 7.157 1.019 14% 2014 25.389 2.521 10% 2015 26.159 1.386 09% 2016 34.630 2.448 07% 2017 34.801 1.587 05% 2018 36.500 1.228 03% Bảng 3: Cơ cấu nguồn thu năm 2015-2017 của các Bệnh viện công lập tại TP. HCM Đơn vị: Tỷ đồng Nguồn thu 2015 2016 2017 Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Ngân sách 1.685 12% 1.623 10% 1.518 8% Thu viện phí 4.237 31% 4.546 28% 5.494 28% Thu BHYT 5.188 37% 6.777 43% 9.075 46% Thu khác 2.794 20% 3.346 19% 3.730 18% Tổng cộng 13.904 100% 16.292 100% 19.817 100% Bảng 4: Cơ cấu chi của các bệnh viện công tại TP. HCM năm 2015-2017 Đơn vị: Tỷ đồng Nội dung 2015 2016 2017 Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Chi thanh toán cá nhân 4.211 30% 4.616 29% 3.467 17% Chi điện, nước, văn phòng phẩm, điện thoại 706 05% 802 05% 1,556 08% Chi mua thuốc, hóa chất, vật tư 7.534 54% 8.584 53% 9.659 48% Chi trích lập các quỹ 1.409 11% 2.075 13% 5.557 27% Tổng cộng 13.860 100% 16.077 100% 20.239 100% Bảng 5: Nguồn thu các bệnh viện tại TP. HCM năm 2013-2016 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 Tổng thu các Bệnh viện tự chủ toàn phần 1.876 2.275 2.807 3.358 Tỷ lệ tăng so với năm trước 21% 23% 20% Tổng thu các Bệnh viện tự chủ một phần 8.173 8.492 9.412 11.006 Tỷ lệ tăng so với năm trước 4% 11% 17% Bảng 6: Thu nhập tăng thêm của các bệnh viện tại TP. HCM năm 2013-2016 Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 Số Bệnh viện có thu nhập tăng thêm ≥ 2 lần lương 4 4 6 7 Số Bệnh viện có thu nhập tăng thêm ≥ 1 đến < 2 lần lương 12 12 15 16 Số Bệnh viện có thu nhập tăng thêm < 1 lần lương 38 38 34 32 Thu nhập trung bình/người/năm/các Bệnh viện tự chủ một phần (triệu đồng) 76 84 87 84 Thu nhập trung bình/người/năm/các Bệnh viện tự chủ toàn phần (triệu đồng) 126 126 135 194 13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 136 - tháng 2/2019 Đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo: Kết quả thực hiện tự chủ tài chính của các trường đại học công lập ở các tỉnh được khảo sát cho thấy phần lớn các trường đã đảm bảo tương đối tốt toàn bộ chi thường xuyên đồng thời thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người học thông qua việc miễn giảm học phí cho các đối tượng chính sách, trích học bổng khuyến khích theo quy định và có chênh lệch thu lớn hơn chi, thu nhập bình quân của người lao động tăng lên so với giai đoạn trước. Các trường đại học công lập có sự thuận lợi về khả năng tài chính chủ yếu do yếu tố khách quan mang lại như vị trí trường học và điều kiện dân cư (ví dụ tại TP. HCM có Trường THPT Nam Sài Gòn, Trường Mầm non Nam Sài Gòn). 3. Những tồn tại, hạn chế Những hạn chế về cơ chế, chính sách Về việc ban hành các văn bản pháp luật cũng như các quy định về cơ chế tự chủ của các ĐVSNCL Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 25/4/2006, sau 10 năm thực hiện cũng đã bộc lộ những hạn chế. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06/4/2015 và thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006; theo đó tại Khoản 1 Điều 22, Chính phủ giao các Bộ: Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thông tin và Truyền thông, Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng và trình Chính phủ sửa đổi, ban hành Nghị định quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL trong từng lĩnh vực; Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 đối với sự nghiệp công lập lĩnh vực kinh tế và sự nghiệp khác. Tuy nhiên đến nay các Bộ vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên địa phương còn lúng túng trong việc triển khai thực hiện như: Việc ban hành danh mục sự nghiệp công sử dụng NSNN; việc quy hoạch mạng lưới các ĐVSNCL; việc ban hành, sửa đổi bổ sung định mức kinh tế kỹ thuật áp dụng trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công Vì vậy, việc triển khai thực hiện các nội dung theo Nghị định số 16/2015/ NĐ-CP chưa đảm bảo đúng tiến độ đề ra do đến nay chưa có Nghị định, Thông tư triển khai thực hiện cho ngành, lĩnh vực một cách đầy đủ (Giáo dục, y tế). Vì vậy, một số tỉnh vẫn tạm giao quyền tự chủ cho các đơn vị theo cơ chế của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP (ví dụ như các ĐVSNCL trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại TP. HCM, tại Long An, Tiền Giang, Quảng Ngãi). Việc thực hiện cơ 14 Cô Cheá töï Chuû taøi Chính Cuûa CaùC ñôn vò söï nghieäp y teá coâng laäp NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 136 - tháng 2/2019 chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục hiện nay chỉ mới dừng lại ở giao tự chủ về tài chính, các nội dung khác như tổ chức bộ máy, biên chế, hoạt động vẫn chưa triển khai tự chủ, chưa có văn bản hướng dẫn. Việc ban hành các văn bản pháp lý của Trung ương chưa đầy đủ, chưa đảm bảo thời hạn quy định, gây khó khăn cho địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện (thiếu 6/8 Nghị định về cơ chế tự chủ tài chính cho từng lĩnh vực chuyên ngành, các Thông tư hướng dẫn về xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá dịch vụ sự nghiệp công lập...). Theo quy định, giá dịch vụ khám, chữa bệnh thực hiện trong khung giá do Nhà nước quy định. Hiện nay, giá dịch vụ khám, chữa bệnh do Nhà nước quy định chưa bao gồm chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Một số cơ sở y tế công lập, có dịch vụ khám, chữa bệnh tự nguyện tại cơ sở được đầu tư từ nguồn xã hội hóa, tuy nhiên thủ trưởng đơn vị không được quyết định mức giá để đảm bảo đủ bù đắp chi phí, do đó, gây khó khăn khi thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực y tế. Về lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN Theo quy định tại Nghị định số 16/2015/ NĐ-CP của Chính phủ: Đến năm 2020, tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Theo Nghị quyết số 19-NQ/TW: Đến năm 2021, hoàn thành lộ trình tính giá ĐVSNCL (tính đủ tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và khấu hao tài sản) đối với một số lĩnh vực cơ bản như y tế, giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp. Như vậy, Nghị quyết số 19-NQ/TW có sự thay đổi so với Nghị định số 16/2015/NĐ-CP; đồng thời, do công tác triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP còn chậm nên việc triển khai thực hiện theo đúng lộ trình nêu trên gặp nhiều khó khăn. Về định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá dịch vụ sự nghiệp công lập sử dụng NSNN Ngoài lĩnh vực giáo dục dạy nghề, tài nguyên môi trường đã có Thông tư hướng dẫn, các lĩnh vực còn lại Trung ương chưa có hướng dẫn cụ thể về phương pháp xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật nên các đơn vị còn lúng túng trong việc xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật cho các dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN. Về tổ chức bộ máy, biên chế Chức năng phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công của một số đơn vị sự nghiệp không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay của các tỉnh (chẳng hạn như tại tỉnh Quảng Ngãi có Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Trung tâm Văn hóa Thể thao trực thuộc Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp Quảng Ngãi). Vẫn còn có sự tương đồng, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các đơn vị, chưa tận dụng được tối đa cơ sở vật chất, nguồn lực hoạt động (ví dụ tại Quảng Ngãi có các đơn vị như Trường trung cấp nghề Tỉnh, Trường trung cấp nghề Đức Phổ trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; Trung tâm dạy nghề Phụ nữ, trực thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh và Trung tâm dạy nghề Nông dân, trực thuộc Hội Nông dân tỉnh; Trung tâm Bảo trợ Xã hội và Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội, trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; Ban Quản lý Rừng phòng hộ môi trường, cảnh quan Dung Quất, Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật Nông- Lâm nghiệp Dung Quất và Ban Quản lý phát triển đô thị Dung Quất, trực thuộc Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp Quảng Ngãi). Một số đơn vị sự nghiệp y tế có sự tương đồng về chức năng, nhiệm vụ (Trung tâm Y tế dự phòng Tỉnh, Trung tâm Phòng chống sốt rét Tỉnh và Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS Tỉnh) và hầu hết các bệnh viện đa khoa ở các tỉnh luôn trong tình trạng quá tải, trong khi bệnh viện tuyến huyện tại một số địa phương lưu lượng bệnh nhân ít, chất lượng khám, chữa bệnh cho người dân chưa cao. Những thách thức đối với hoạt động quản lý bệnh viện công: (1) Đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ y tế; (2) Tăng quyền tự chủ gắn liền với tự chịu trách nhiệm; (3) 15NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 136 - tháng 2/2019 Công khai kết quả đánh giá chất lượng bệnh viện cho người dân biết; (4) Bảo đảm chất lượng dịch vụ theo các tiêu chí, tiêu chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; (5) Thực hiện quy định công khai, trách nhiệm giải trình hoạt động của đơn vị theo quy định của pháp luật; (6) Bệnh nhân đăng ký khám, chữa bệnh BHYT ban đầu tại bệnh viện - Quản lý Quỹ khám, chữa bệnh; bệnh nhân nơi khác đến - Quản lý trần chi phí (giao dự toán khám, chữa bệnh BHYT); (7) Thu BHYT ít hơn chi cho BHYT do đó ngân sách tỉnh phải bù lỗ; (8) Cạnh tranh mạnh mẽ giữa hệ thống y tế công và y tế công-tư; (9) Khó khăn đối với các bệnh viện chưa có thương hiệu, ngân sách thì giảm nhiều mà nguồn thu thì tăng ít; (10) Chi phí khấu hao, quản lý, công nghệ thông tin, nghiên cứu khoa học chưa được tính vào giá nhưng ngân sách thì không cấp. Về vấn đề tài chính Số lượng các ĐVSNCL trên địa bàn các tỉnh tuy khá nhiều nhưng quy mô nhỏ, khả năng tự chủ thấp, chủ yếu dựa vào NSNN. Chẳng hạn, tại tỉnh Quảng Ngãi, trong tổng số 333 ĐVSNCL cấp tỉnh, có 282 đơn vị sự nghiệp do NSNN đảm bảo chi thường xuyên, chiếm 84,68% với tỷ lệ quá cao; có 44 ĐVSNCL tự đảm bảo một phần chi thường xuyên, chiếm 13,2% (trong đó đơn vị tự đảm bảo từ 10% đến dưới 30% có 26 đơn vị, chiếm 59,1%; đơn vị tự đảm bảo từ 30% đến 50% có 06 đơn vị, chiếm 13,6%; đơn vị tự đảm bảo từ trên 50% đến dưới 100% có 12 đơn vị, chiếm 27,3% và có 07 đơn vị sự nghiệp khác tự đảm bảo chi thường xuyên, chiếm 2,1%). Một số lĩnh vực đơn vị sự nghiệp có xu hướng còn ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, xin tăng thêm về số lượng biên chế, không có ý thức cắt giảm chi phí, chưa thực sự chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ; phương thức hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp công lập chưa được đổi mới đồng bộ. Định mức kinh phí do NSNN cấp cho các đơn vị còn mang tính bình quân (chủ yếu theo chỉ tiêu biên chế, chỉ tiêu học sinh, chỉ tiêu giường bệnh) chưa tính đến nhiệm vụ, đặc điểm cụ thể của từng đơn vị. Nhiều đơn vị sự nghiệp của tỉnh có nguồn thu không lớn, không có khả năng phát triển các hoạt động dịch vụ. Tuy nhiên có một số ít đơn vị có hoạt động dịch vụ nhưng chủ yếu phải hợp đồng thuê, khoán đối tượng bên ngoài. Nguồn thu hoạt động dịch vụ này phải thanh toán lại cho các đối tượng thuê ngoài; mặt khác các đơn vị còn phải tiết kiệm 10% kinh phí hoạt động thường xuyên để thực hiện cải cách tiền lương nên kinh phí tiết kiệm còn lại ít, 16 Cô Cheá töï Chuû taøi Chính Cuûa CaùC ñôn vò söï nghieäp y teá coâng laäp NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 136 - tháng 2/2019 không có tác động tích cực đối với việc thực hiện cơ chế tự chủ, tăng nguồn thu, tiết kiệm chi để tăng thu nhập cho viên chức và trích lập các quỹ theo quy định. Tại TP. Hồ Chí Minh, một số bệnh viện xây mới như Nhi đồng Thành phố, Cần Giờ, Bình Chánh, một số bệnh viện chưa thu hút được bệnh nhân như Quận 3, Quận 6, Quận 7, Quận 9 gặp khó khăn nhiều về kinh phí hoạt động và thu nhập. Tuy đơn vị được giao tự bảo đảm chi thường xuyên nhưng một số chi phí như chi phí khấu hao tài sản, chi phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học chưa được kết cấu vào giá dịch vụ khám, chữa bệnh. 4. kiến nghị, giải pháp Về cơ chế chính sách Trung ương cần sớm ban hành đầy đủ hệ thống văn bản pháp luật, các văn bản hướng dẫn cơ chế tự chủ ĐVSNCL để địa phương có cơ sở triển khai thực hiện thống nhất. Về tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý biên chế và tinh giản biên chế Chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, khả năng của đơn vị theo quy định, báo cáo cơ quan quản lý cấp trên để theo dõi, kiểm tra và giám sát việc thực hiện (đối với đơn vị sự nghiệp không sử dụng kinh phí NSNN) hoặc báo cáo cơ quan cấp trên để phê duyệt và quyết định phương thức giao kế hoạch cho đơn vị thực hiện (đối với đơn vị sự nghiệp sử dụng kinh phí NSNN). Về tài chính Một là, hoàn thiện các điều kiện cần thiết làm cơ sở đổi mới phương thức giao dự toán NSNN từ cấp phát sang đặt hàng. Hai là, khai thác các nguồn lực tài chính, mở rộng nguồn thu cho các ĐVSNCL. Đối với lĩnh vực y tế: Đề nghị cần có sự hỗ trợ từ NSNN đối với việc hỗ trợ miễn, giảm chi phí điều trị cho Bệnh nhân nghèo không có thẻ BHYT vì bệnh viện còn khó khăn về kinh phí trong khi thực hiện tự chủ (ví dụ như bệnh viện Nguyễn Tri Phương tại TP. HCM, hiện nay việc miễn, giảm chi phí điều trị cho bệnh nhân nghèo không có thẻ BHYT được bệnh viện chi từ nguồn đóng góp từ thiện của các tổ chức, cá nhân, nguồn thu từ dịch vụ khám, chữa bệnh và các nguồn thu khác, do đó kiến nghị BHXH hỗ trợ cho các bệnh viện chi phí này vì hiện nay các bệnh viện đã tự chủ). Không nên giao tự chủ cho các bệnh viện đang trong thời gian xây dựng mới vì bệnh viện vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nguồn thu giảm, nên bổ sung thêm ngân sách để đảm bảo hoạt động tốt trong thời gian xây dựng (như các bệnh viện ở Quận 3 TP. HCM...). Ba là, một số biện pháp khắc phục vượt quỹ và vượt trần khám, chữa bệnh BHYT. Cần xây dựng phác đồ điều trị nhằm hạn chế chi phí cao do lạm dụng thuốc, dịch vụ kỹ thuật làm gia tăng chi phí. Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát sự tuân thủ phác đồ điều trị. Xây dựng danh mục thuốc, vật tư phù hợp phác đồ điều trị và chọn lựa mặt hàng có giá hợp lý. Lưu ý việc lựa chọn mặt hàng thuốc, vật tư sẽ làm ảnh hưởng lớn đến quỹ định suất và trần thanh toán BHYT. Ứng dụng công nghệ thông tin để khắc phục nguyên nhân không thống kê đủ thuốc, vật tư và dịch vụ kỹ thuật đã sử dụng hoặc áp giá sai. Thực hiện các dịch vụ kỹ thuật đã được thẩm định của Sở Y tế, chuẩn hóa tên gọi dịch vụ kỹ thuật theo quy định, thống nhất tên gọi thuốc, vật tư để hạn chế bị thanh toán theo giá thấp nhất, bị xuất toán và áp giá sai, tuân thủ đúng quy trình mua sắm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu phục vụ họp về việc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ đối với ĐVSNCL trên địa bàn Thành phố Hà Nội của Sở Tài chính Hà Nội tháng 08 năm 2018; 2. Báo cáo tình hình ĐVSNCL của Sở Y tế tại tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2018; 3. Các báo cáo đánh giá tình hình thực hiện cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực y tế của TP. HCM.
File đính kèm:
- co_che_tu_chu_cua_cac_don_vi_su_nghiep_cong_lap_tai_mot_so_t.pdf