Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) của Đảng, Hiến pháp 2013 của Nhà nước và văn
kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động. Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay phù hợp với thực tiễn
cách mạng Việt Nam qua hơn 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Với tinh thần đó, mỗi cán bộ, đảng viên kiên định với chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực
tiễn Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
g, vừa kiên quyết dũng cảm từ bỏ những phương pháp sai lầm, mô hình cũ không hiệu quả, xác lập mô hình mới để xây dựng chủ nghĩa xã hội có hiệu quả hơn. Ch nh độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đem lại sự đổi mới kỳ diệu đó. Cách đây hơn 90 năm, dưới ách nô lệ, dân tộc Việt Nam, thông qua người con ưu tú của mình đã tìm được con đường cứu nước, giải phóng dân tộc hết sức đúng đắn. Sự lựa chọn đó cũng là sự lựa chọn của lịch sử. Việt Nam không lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa bởi con đường ấy không thật sự đưa đến độc lập tự do và quyền làm chủ của nhân dân mà đại bộ phận là công nhân, nông dân và trí thức. Thật ra, ở một quốc gia thuộc địa như Việt Nam không có những tiền đề, điều kiện, khả năng giải phóng đất nước bằng con đường tư bản chủ nghĩa. Ở một đất nước nô lệ như iệt Nam lúc bấy giờ, chủ nghĩa tư bản cũng chỉ là thứ “chủ nghĩa tư bản bản xứ” èo uột, phụ thuộc vào chế độ thực dân. Nhìn lại lịch sử đầu thế kỷ XX, sau Cách mạng tháng Tám 1945, dân tộc Việt Nam muốn hòa bình, nhưng chủ nghĩa đế quốc không để yên. Chúng “phê phán” con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” bằng những lời lẽ thâm độc. Ngày nay, nhiều học giả phương Tây, kể cả Mỹ nói rằng: không có cuộc chiến đấu và chiến thắng của nhân dân Việt Nam thì bộ mặt thế giới đã khác. Nếu không có 30 năm chiến tranh và hàng chục năm khắc phục hậu quả chiến tranh thì sự phát triển của Việt Nam đã hoàn toàn khác (Trần Hữu Tiến, 2008: 225). Có ý kiến cho rằng, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có tác dụng diệu kỳ trong giải phóng dân tộc (khó có thể phủ nhận), nhưng ngày nay không còn thích hợp nữa. Ý kiến này “quên” một điều căn bản: con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sở dĩ có sức mạnh trong giải phóng dân tộc vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là khát vọng của TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021 7 nhân dân. Chúng ta cần làm rõ vấn đề mà nhiều người quan tâm: “Định hướng xã hội chủ nghĩa” có phải là “vòng kim cô”, không cho phép đổi mới tư duy, kìm hãm sự phát triển của đất nước; phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có phải là đường lối phát triển không hiệu quả hay không? (Trần Hữu Tiến, 2008: 225). Thực tiễn chứng minh gần 35 năm qua, chúng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các nhà quan sát phương Tây, các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế WB, IMF đều thừa nhận Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới. Chúng ta đều biết rõ, khi trở thành một nước công nghiệp thì giữ được mức tăng trưởng cao không dễ dàng. định hướng xã hội chủ nghĩa không triệt tiêu những động lực phát triển. Đó là động lực của nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là động lực của việc kết hợp hài hòa các lợi ch, đặc biệt là sự kết hợp hài hòa lợi ích của người lao động với lợi ích của các doanh nhân, các nhà đầu tư. Đó là động lực của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lợi ích và mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là động lực của thể chế kinh tế thị trường ngày càng hiện đại hóa. Đó là động lực của sự cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần khác nhau, trong đó doanh nghiệp nhà nước cũng phải cạnh tranh bình đẳng như các doanh nghiệp khác. Đó là động lực của sự hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác quốc tế, cạnh tranh quốc tế mà Việt Nam tham gia một cách tích cực và chủ động. Một nền kinh tế “thiếu động lực” không thể tăng trưởng bình quân 7% trong hàng chục năm liên tục như iệt Nam. Định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phát huy cao độ mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân. ới sự quản lý tốt của Nhà nước, sự phát triển lành mạnh, đúng pháp luật, kinh tế tư bản tư nhân không mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa; trái lại, đó là một trong những nhân tố giàu sức sống của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những ý kiến nhằm bác bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa thường tập trung mũi nhọn phê phán vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Họ nói kinh tế nhà nước ở bất kỳ nước nào cũng yếu kém, không hiệu quả vì “cha chung không ai khóc”, là bộ phận kinh tế không có động lực (Trần Hữu Tiến, 2008: 227). Đó là nhận thức không khách quan. Quản lý một doanh nghiệp nhà nước khó khăn hơn nhiều so với quản lý một doanh nghiệp tư nhân có quy mô như nhau, vì phải sử dụng mối quan hệ phức tạp hơn. Song nếu quản lý tốt, khắc phục được những khuyết điểm chủ quan thì tiềm năng của kinh tế nhà nước rất lớn, sẽ được phát huy. Kinh tế nhà nước có những ưu việt NGUYỄN THỊ HIỀN OANH – CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG 8 mà ngày nay mới chỉ được khai thác một phần rất nhỏ. Trong thực tế sự phát triển tốt của kinh tế nhà nước không những không cản trở, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, kể cả kinh tế tư nhân. Có người hiểu sai “vai trò chủ đạo” của kinh tế nhà nước, rồi dựa vào đó mà phê phán. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không phải ở quy mô càng lớn càng tốt, ở sự hiện diện các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước trong tất cả hoặc hầu hết các ngành, mà thể hiện trước hết ở sức mạnh tạo môi trường, điều kiện hỗ trợ phát triển để Nhà nước điều tiết và định hướng phát triển kinh tế. Có thể dự đoán rằng trong nền kinh tế tri thức của tương lai, thế mạnh của kinh tế nhà nước sẽ được phát huy cao hơn nữa. Những yếu kém của nền kinh tế nhà nước là có thật, cần được khắc phục và hoàn toàn có khả năng từng bước khắc phục. Có ý kiến cho rằng định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nhà nước can thiệp quá nhiều vào đời sống kinh tế - xã hội; “nhà nước” cần “nhỏ”, “nhân dân” mới là “lớn”. Thế nhưng, trong thực tế họ lại đòi hỏi Nhà nước quá nhiều, chẳng hạn đòi hỏi Nhà nước gánh chịu mọi khó khăn, thua thiệt trong cạnh tranh quốc tế. Họ cho rằng trong kinh tế có những lĩnh vực rất cần cho xã hội nhưng t lợi nhuận nên tư nhân không ai muốn làm, vì đó là lĩnh vực “dành cho nhà nước”. Đây ch nh là quan điểm muốn Nhà nước và kinh tế nhà nước là “cha chung”, “không của ai cả”; đòi hỏi Nhà nước nhiều nhưng không muốn Nhà nước có trong tay lực lượng kinh tế (ngoại trừ thuế) để quản lý, điều tiết nền kinh tế, đó là quan điểm tự mâu thuẫn. Định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là thực hiện một quan điểm phát triển đúng đắn, đặc biệt là phát triển kinh tế, vấn đề sống còn đối với Việt Nam, một nước từ nông nghiệp lạc hậu đi lên. Nội dung cốt lõi của sự phát triển là thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo phương thức công nghiệp hóa rút ngắn, phát triển bền vững. Chúng ta xác định rõ: đường lối phát triển của Việt Nam là phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; phát triển hướng về con người, vì con người. “Con người” không chỉ nói một bộ phận đặc thù của xã hội; con người không chỉ là một giai cấp, một tầng lớp, một địa phương, mà con người là tất cả cộng đồng và mỗi cá nhân, tất cả đều có cơ hội phát triển và được hưởng mọi thành quả của phát triển, tương xứng với đóng góp của mình vào sự phát triển chung của đất nước. Con người không chỉ được xem như động lực của sự phát triển, mà được xem trước hết như mục đ ch của sự phát triển. Sự phát triển của Việt Nam đảm bảo lợi ch ch nh đáng của người lao động và các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế, nhưng không bình quân, cào bằng; thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021 9 chủ yếu, đồng thời phân phối theo mức độ đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội ở trình độ ngày càng cao; thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Một trong những đặc trưng nổi bật của định hướng xã hội chủ nghĩa là kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Định hướng xã hội chủ nghĩa không có nghĩa là thực hiện chủ nghĩa bình quân, nghèo cùng nghèo, giàu cùng giàu, không chấp nhận mọi sự chênh lệch, bất bình đẳng, kể cả những bất bình đẳng không thể tránh được, thậm chí là cần thiết trong quá trình phát triển. Chúng ta coi trọng bình đẳng trong cơ hội phát triển, tạo cơ hội cho mọi người, tạo điều kiện để mọi người sử dụng tốt năng lực của mình. Chính sách của Đảng và Nhà nước là khuyến khích làm giàu hợp pháp, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa vì lợi ích của bản thân, không chấp nhận làm giàu phi pháp, bất ch nh như lừa đảo, tham nhũng. Khuyến khích làm giàu ch nh đáng phải đi đôi với chiến lược xóa đói, giảm nghèo, chủ yếu bằng cách tạo công ăn việc làm, tạo cơ hội cho những người nghèo tự cải thiện đời sống. Định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục; xem văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; xem phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội. Sự phát triển trong nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến phân hóa giàu nghèo. Nếu bỏ mặc cho sự phân hóa đó diễn ra một cách tự phát, viện cớ rằng có phân hóa mới có động lực, hoặc viện bất cứ lý do nào khác cũng đều trái với mục đ ch của chủ nghĩa xã hội thì sớm muộn cũng có hại cho sự phát triển. Định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Nhà nước và xã hội phải kiểm soát được quá trình phân hóa giàu nghèo, không để cho sự phân hóa diễn ra quá mức dẫn đến một xã hội bất công, mà sự đau khổ thiệt thòi thuộc về những người lao động và những người làm ăn chân ch nh. Gần 35 năm qua, đi đôi với sự phát triển kinh tế, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn về mặt xã hội; công tác xóa đói giảm nghèo được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả tốt. Việt Nam được cộng đồng quốc tế xem là một trong những nước xóa đói giảm nghèo thành công. Chỉ số phát triển con người (HDI) cao hơn mức phát triển kinh tế. Rõ ràng, Việt Nam không “tụt hậu” những lợi ích về mặt xã hội. Nhân dân iệt Nam không thể hưởng thụ những lợi ích về xã hội như vậy nếu đất nước không theo định hướng xã hội chủ nghĩa. NGUYỄN THỊ HIỀN OANH – CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG 10 Về mặt chính trị, định hướng xã hội chủ nghĩa là không ngừng tăng cường quyền làm chủ về mặt nhà nước của nhân dân, xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong tiến trình đổi mới, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Những thành tựu về kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam trong hơn 75 năm qua, đặc biệt trong gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, không thể có được và không thể giữ được nếu không có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đều vì nhân dân, là tiền đề chính trị, là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, nói xây dựng chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa mà không giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì chỉ là lời nói suông. Việc tuyên truyền đòi “dân chủ” đa nguyên, đa đảng đối lập là sự xúi giục của các thế lực phản động với ý đồ đen tối không vì lợi ích của nhân dân mà chúng muốn thay đổi chế độ chính trị, chấm dứt định hướng xã hội chủ nghĩa theo kịch bản như chúng đã thực hiện với Liên Xô trước đây. Gần 35 năm thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới có nghĩa là thay đổi căn bản cấu trúc mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết, nhưng vẫn giữ vững mục tiêu quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản, và thực hiện mục tiêu ấy bằng phương thức mới. Thay đổi mô hình chủ nghĩa xã hội trong hiện thực đồng thời với thay đổi quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011: 70). Trong thời kỳ đổi mới, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh nhằm xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. 3. KẾT LUẬN Trải qua gần 100 năm nô lệ thực dân Pháp, với nhiều cuộc khởi nghĩa nhưng cuối c ng đều thất bại. Năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021 11 lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, và tiếp theo là toàn quốc kháng chiến chống thực dân và đế quốc xâm lược, nhân dân Việt Nam đã hiểu rõ bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đó càng khẳng định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo duy nhất suốt quá trình lịch sử chống thực dân, đế quốc từ năm 1930 đến thắng lợi hoàn toàn và đang tiếp tục lãnh đạo đất nước thành công trong giai đoạn toàn cầu hóa kinh tế, tích cực tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giải đáp được những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới của thời đại ngày nay. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập, tập 2, 10. Hà Nội. Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 3. Trần Hữu Tiến. 2008. Một số vấn đề về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
File đính kèm:
- chu_nghia_mac_lenin_tu_tuong_ho_chi_minh_va_dinh_huong_xa_ho.pdf