Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến

Bài viết trình bày các vấn đề lý luận về chính sách tự vệ thương mại với

vai trò là một trong các chính sách thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong thực

ti n hoạt động trao đổi thương mại toàn cầu giai đoạn hiện nay. Đồng thời, bài viết c ng mô

tả cụ thể việc triển khai áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại của chính phủ Việt nam

nh m bảo vệ thị trường nội địa c ng như đáp ứng các yêu cầu từ thị trường nước ngoài và

phù hợp với các thông lệ quốc tế. Cuối cùng, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nh m thúc

đẩy vận dụng chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam sao cho có hiệu quả nhất trong thực

ti n hoạt động thương mại quốc tế giai đoạn hiện nay.

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 1

Trang 1

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 2

Trang 2

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 3

Trang 3

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 4

Trang 4

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 5

Trang 5

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 6

Trang 6

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 7

Trang 7

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 8

Trang 8

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 9

Trang 9

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang xuanhieu 8800
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến

Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiến
 xuất nội 
địa nước nhập khẩu trước sự gia tăng đột biến của hàng nhập khẩu. Vì vậy, để đối phó với 
nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ, các doanh nghiệp xuất khẩu cần: 
- Doanh nghiệp cần phải chủ động phối hợp với cơ quan đầu mối thay mặt chính phủ 
tham gia tranh chấp trong việc chuẩn bị hồ sơ, cung cấp thông tin trong nước. 
- Doanh nghiệp cần phải có hiểu biết chung về biện pháp tự vệ là gì. Cần phải nhận 
biết về sự tồn tại của nguy cơ bị kiện tại các thị trường xuất khẩu và cơ chế vận hành của 
chúng, nhóm thị trường và mặt hàng thường bị kiện. 
- Doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược trong kinh doanh một cách cụ thể và bài 
bản. Cần phải tính đến khả năng bị kiện khi xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hoá của 
mình để có kế hoạch chủ động phòng ngừa và xử lý khi không phòng ngừa được, ví dụ đa 
dạng hoá thị trường xuất khẩu, tránh phát triển quá nóng một thị trường, tăng cường cạnh 
tranh bằng chất lượng, tiến tới giảm dần cạnh tranh bằng giá rẻ 
- Doanh nghiệp tích cực hợp tác khi vụ kiện xảy ra. Phối hợp, liên kết với các doanh 
nghiệp có cùng mặt hàng xuất khẩu để có chương trình, kế hoạch đối phó chung đối với các 
vụ kiện có thể xảy ra; sử dụng các chuyên gia tư vấn và luật sư trong những tình huống cần 
thiết và thích hợp; giữ liên hệ với cơ quan quản lý nhà nước về thương mại để các cơ quan 
này có tiếng nói bảo vệ quyền lợi tốt hơn cho doanh nghiệp, kể cả việc đàm phán các hiệp 
định có cam kết không áp dụng hoặc hạn chế áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá của 
nhau, bày tỏ quan điểm đối với các nước áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá của Việt 
Nam, yêu cầu có bồi thường quyền lợi thương mại khi có việc nước khác áp dụng biện pháp 
tự vệ. 
4. Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy vận dụng chính sách tự vệ thƣơng mại của 
Việt Nam 
4.1. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về tự vệ thương mại 
Như đã phân tích ở chương 3, không có quy định nào của pháp luận về tự vệ của 
Việt Nam trái hay mâu thuẫn với quy định của WTO. Tuy nhiên, do các chế định hiện tại 
còn chưa được chi tiết, cụ thể hóa nên có thể có vẫn đề nảy sinh trong quá trình thực thi và 
áp dụng các biện pháp tự vệ. Hơn nữa, theo cam kết của Việt Nam với WTO về phòng vệ 
thương mại, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về tự vệ thương mại cần phải 
đảm bảo phù hợp hoàn toàn với các quy định lien quan trong Hiệp định về các biện pháp tự 
1066 
vệ thương mại của WTO. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tự vệ 
thương mại theo hướng vừa phù hợp với các quy định của WTO, vừa thuận lợi cho quá trình 
triển khai và áp dụng. Cụ thể: 
Thứ nhất, Pháp lệnh về tự vệ chỉ quy định về quyền tự vệ của Việt Nam mà chưa đề 
cập đến các quy định trong trường hợp nào thì Việt Nam sẽ áp dụng biện pháp trả đũa một 
nước nếu nước đó đã áp dụng biện pháp tự vệ không có căn cứ hoặc điều kiện áp dụng trái với 
nguyên tắc và quy định trong các Hiệp định song phương giữa nước đó với Việt Nam. Việc 
bổ sung quy định này vào Pháp lệnh trong thời gian tới hoặc xây dựng riêng một văn bản về 
trả đũa trong thương mại là vô cùng cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp xuất 
khẩu hàng hoá của Việt Nam. 
Thứ hai theo quy định của Pháp lệnh tự vệ thì các biện pháp tự vệ được áp dụng không 
phân biệt đối xử và không phân biệt xuất xứ hàng hoá trừ trường hợp ngoại lệ là các biện 
pháp tự vệ có thể không áp dụng đối với hàng hoá có xuất xứ từ những nước kém phát triển. 
Về mặt lý luận, quy định này phù hợp với các quy tắc và thông lệ của các nước trên thế giới 
cũng như của WTO. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng quy định này lại nảy sinh ra một số 
khó khăn nhất định, chẳng hạn, trong số các nước có lượng hàng hoá nhập khẩu vào Việt 
Nam thì chỉ có một số nước có lượng nhập khẩu tăng mạnh trong khi thị phần nhập khẩu của 
các nước khác không tăng thậm chí còn giảm đi. Việc áp dụng biện pháp hạn ngạch dựa trên 
tỷ lệ hàng hoá nhập khẩu sẽ gây bất lợi đối với một số nước có lượng nhập khẩu vào Việt 
Nam giảm đi trong khi những nước có lượng nhập khẩu tăng mạnh thì sẽ ít bị ảnh hưởng hơn 
bởi quyết định của nước áp dụng biện pháp tự vệ. Việt Nam cần nghiên cứu bổ sung thêm 
ngoại lệ này bằng cách đưa thêm vào Pháp lệnh quy định việc phân bổ hạn ngạch, thỏa thuận 
áp dụng hạn ngạch chỉ đối với một số nước có thị phần nhập khẩu tăng lên một cách tuyệt đối 
hay tương đối so với lượng nhập khẩu trung bình trong khoảng thời gian 3 năm trước đó. Hơn 
nữa, Việt Nam cũng nên quy định bổ sung thêm vào khoản 2 điều 21 Pháp lệnh về tự vệ năm 
2002 trường hợp nếu thị phần nhập khẩu từ các nước kém phát triển vượt quá bao nhiêu phần 
trăm thì có thể vẫn áp dụng một biện pháp tự vệ nhằm mục đích kiểm soát được lượng hàng 
hoá nhập khẩu từ những nước này. 
4.2. Nâng cao năng lực của bộ máy thực thi pháp luật về tự vệ thương mại 
Để áp dụng được các biện pháp tự vệ thương mại, chúng ta cần nhanh chóng đào tạo 
nguồn nhân lực ở nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan tới triển khai áp dụng các biện pháp tự 
vệ. Cụ thể: 
- Cần có kế hoạch đào tạo sớm các luật sư chuyên về thương mại quốc tế để đội ngũ 
này có thể tham gia giải quyết tranh chấp liên quan tới việc áp dụng các biện pháp tự vệ. 
- Đội ngũ cán bộ tham gia trực tiếp vào quá trình điều tra phải có trình độ chuyên môn 
sâu và nhiều kinh nghiệm. Do đó, cần liên tục được đào tạo về lý thuyết và tập huấn kinh 
nghiệm. Bộ Công thương cần hoàn thiện và củng cố bộ máy cũng như đào tạo nguồn nhân lực 
của Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng xử lý vụ việc để giải quyết các vấn đề phát sinh 
trong quá trình áp dụng các biện pháp tự vệ. Đồng thời, tổ chức các khóa đào tạo về tự vệ 
thương mại cho cán bộ thuộc Bộ Công thương và các bộ ngành liên quan. 
1067 
- Đối với các doanh nghiệp, cần nâng cao năng lực nguồn nhân lực của mình thong 
qua các khóa đào tạo do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức, một 
mặt nâng cao hiểu biết về tự vệ thương mại để có thể bảo vệ quyền lợi của mình, một mặt chủ 
động phòng tránh và đối phó với các vụ kiện tự vệ ở nước ngoài. 
Các doanh nghiệp nên sớm tạo cho mình thế chủ động trong mọi tình huống. Bên 
cạnh sự trợ giúp của các cơ quan Nhà nước hay các Hiệp hội cùng ngành nghề, các doanh 
nghiệp cũng cần tự tìm hiểu và chuẩn bị cho mình đầy đủ các thông tin kiến thức về chủ 
trương, chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam nói riêng và tình hình tự vệ thương mại 
của thế giới nói chung để trên cơ sở đã hiểu sâu bản chất, nắm bắt kịp thời vấn đề, có thể 
chủ động đối phó lại với những tình huống khi bị nước khác áp dụng biện pháp tự vệ cũng 
như khi cần thiết phải yêu cầu Nhà nước sử dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ quyền và lợi ích 
của doanh nghiệp. 
4.3. Nâng cao năng lực nhận thức và phối hợp của các doanh nghiệp trong vấn đề khởi 
kiện và yêu cầu áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại 
Vấn đề tự vệ thương mại là một vấn đề còn rất mới mẻ trong nhận thức của các cơ 
quan từ cấp Nhà nước xuống cấp doanh nghiệp của Việt Nam. Từ trước khi ban hành Pháp 
lệnh về tự vệ năm 2002 trở về trước, ở Việt Nam chưa hề có một văn bản bản nào quy định 
hay giải thích về vấn đề này. Sự hiểu biết về vấn đề liên quan đến các biện pháp tự vệ ngay 
trong các cơ quan và công chức hoạch định chính sách thương mại cũng còn rất hạn chế. Kể 
từ khi ban hành Pháp lệnh tự vệ tháng 5 năm 2002 đến nay, tình hình đã được cải thiện đôi 
chút. Tuy nhiên, sự nhận thức về vấn đề này còn chưa phổ biến và chưa thực sự có chiều sâu. 
Tự vệ thương mại được xem là công cụ hữu hiệu nhằm đối phó với việc hàng ngoại 
nhập tràn vào một cách ồ ạt làm suy giảm nền sản xuất trong nước. Đây là giải pháp được 
nhiều nước trên thế giới áp dụng và được cho phép trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, ở 
Việt Nam, vấn đề này vẫn còn khá mới mẻ và chưa được áp dụng nhiều. 
Thực tế cho thấy, từ năm 2002, khi Việt Nam ban hành Pháp lệnh 42/2002/PL-
UBTVQH10 về phòng vệ thương mại, đến nay chỉ mới có ba doanh nghiệp nộp đơn yêu cầu 
áp dụng biện pháp này trước tình trạng hàng nhập khẩu gây nhiều thiệt hại, gồm một vụ kiện 
đối với mặt hàng kính nổi năm 2009, nhưng kết quả không đủ cơ sở để áp dụng biện pháp tự 
vệ; vụ kiện dầu ăn vừa được Cục Quản lý cạnh tranh áp dụng biện pháp tự vệ chính thức vừa 
qua và vụ kiện đối với mặt hàng thép không gỉ đang được cục này xem xét. 
Về vụ kiện Công ty Viglacera yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng kính 
nổi nhập khẩu, sau hai tháng Cục Quản lý cạnh tranh tiến hành điều tra, Bộ Công thương ra 
quyết định sẽ không áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng này do chưa đủ cơ sở chứng 
minh kính nổi nhập khẩu đe dọa nền sản xuất trong nước. Đây cũng chính là điểm yếu nhất 
của các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành các vụ kiện áp dụng biện pháp tự vệ. 
Vụ việc cho thấy doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự tận dụng được biện pháp tự vệ 
thương mại để bảo vệ mình do đây còn là vấn đề khá mới mẻ. Do vậy, các doanh nghiệp Việt 
Nam thiếu kinh nghiệm trong việc khởi kiện, tìm hiểu, thu thập dữ liệu chứng minh về thiệt 
hại kinh tế đối với mình. 
1068 
Xuất phát từ thực tế trên, trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ như hiện nay, việc nâng 
cao nhận thức của các doanh nghiệp là hết sức cần thiết để có thể chủ động tiến hành khởi 
kiện cũng như ứng phó với các tranh chấp thương mại trong tương lai. Để làm được điều này 
cần có sự phối hợp đồng bộ của Nhà nước và các doanh nghiệp. Cụ thể: 
* Tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về tự vệ thương mại 
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành những văn bản thông tin có 
liên quan đến vấn đề tự vệ thương mại trong nước và quốc tế để nâng cao sự hiểu biết, đồng 
thời hướng dẫn, tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc nhận biết các nguy cơ, điều kiện để 
áp dụng biện pháp tự vệ cũng như các thủ tục cần thiết để yêu cầu áp dụng tự vệ và các nghĩa 
vụ cần phải làm để trợ giúp các cơ quan chức năng trong quá trình điều tra áp dụng biện pháp 
tự vệ đó. 
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần tăng cường tuyền truyền, phổ biến 
pháp luật về các biện pháp tự vệ thương mại của Việt Nam và thế giới; đào tạo, hỗ trợ kỹ 
thuật cho các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hang Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau 
như: tổ chức các khóa đào tạo ngắn ngày, hội thảo, tọa đàm theo chuyên đề 
Trên thực tế, VCCI đã tổ chức một số khóa học, hội thảo chuyên đề nhằm bồi dưỡng 
kiến thức về tự vệ thương mại của một số quốc gia cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, số 
lượng các khóa học còn ít và mới chỉ tập trung ở một số thành phố lớn. Trong thời gian tới, 
VCCI cần tổ chức nhiều hơn nữa, mở rộng ra nhiều tỉnh thành và cho nhiều đối tượng hơn. 
Nội dung các khóa đào tạo cũng cần đa dạng hơn, đi sâu hơn vào các vấn đề mang tính chi 
tiết, kỹ thuật nhằm thực thi pháp luật về tự vệ của Việt Nam như: vấn đề thu thập chứng cứ, 
lập hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ 
VCCI cần tăng cường sự phối hợp với Cục Quản lý cạnh tranh nhằm tư vấn hỗ trợ 
doanh nghiệp, hiệp hội trong việc lựa chọn luật sư, công ty tư vấn luật phù hợp trong quá trình 
khởi kiện và điều tra áp dụng biện pháp tự vệ. 
* Chủ động tham gia vào các Hiệp hội Doanh nghiệp để tăng cường sức mạnh trong 
tự vệ thương mại 
Hiện nay ở Việt Nam, Hiệp hội các doanh nghiệp cùng ngành nghề đã ra đời. Việc 
thành lập này có ý nghĩa rất quan trọng khi xảy ra tranh chấp thương mại với các doanh 
nghiệp nước ngoài. Thực trạng hiện nay là tuy các doanh nghiệp đã hợp tác với nhau trong 
các hoạt động thương mại quốc tế nhưng sự hợp tác này chỉ dựa trên mức độ nhất định, 
còn nặng về quản lý hành chính và mang tính ―câu lạc bộ‖ chứ chưa thực sự là nơi các chủ 
doanh nghiệp có thể tin tưởng trao thẩm quyền nhất định. Qua các vụ kiện về bán phá giá 
cá tra, cá ba sa với Hoa Kỳ, vụ bán phá giá bật lửa ga với Hàn quốc, vụ giầy dép với 
Canada.. chúng ta hơn lúc nào hết ý thức được rằng việc thành lập các hiệp hội cùng 
ngành nghề hay hiệp hội doanh nghiệp là rất cần thiết. Thông qua hiệp hội, các nhà sản 
xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc nộp đơn yêu cầu cơ quan chức năng điều tra và áp biện 
pháp tự vệ. Ngoài ra, chính các hiệp hội mới có nhiều điều kiện để cung cấp và thẩm định 
thông tin liên quan tới nhà xuất khẩu. 
1069 
* Khẩn trương tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, b ng chứng để yêu cầu tiến hành áp 
dụng biện pháp tự vệ hay biện pháp trả đ a 
Các doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ 
bởi đây là những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc hàng hoá nhập khẩu gia tăng 
hay chịu tác động bất lợi trực tiếp bởi việc áp dụng các biện pháp tự vệ của các nước khác. 
Doanh nghiệp là những nhân tố chính trong cuộc điều tra và đưa ra những bằng chứng trong 
quá trình điều tra. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có những hành động sau: 
- Giám sát thường xuyên tác động của hàng nhập khẩu đối với ngành công nghiệp nội 
địa. Thông báo ngay lập tức khi có sự thiệt hại nghiêm trọng hay sự đe dọa gây ra thiệt hại 
nghiêm trọng xuất phát từ việc gia tăng của lượng hàng nhập khẩu. Tiếp xúc với cơ quan có 
thẩm quyền của Nhà nước, cụ thể Bộ Công thương để đưa đơn kiến nghị và yêu cầu điều tra, 
áp dụng biện pháp tự vệ. 
- Khi công việc điều tra bắt đầu, các doanh nghiệp chịu trách nhiệm chính trước ngành 
sản xuất nội địa về việc khẩn trương tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ và cung cấp các bằng chứng 
liên quan đến thiệt hại nghiêm trọng và mối quan hệ nhân quả giữa việc gia tăng nhập khẩu và 
sự tổn hại nghiêm trọng cho Bộ Công Thương. 
- Để đề phòng việc áp dụng biện pháp tự vệ của một nước khác, các doanh nghiệp 
cũng nên thiết lập một hệ thống thu thập, thống kê định kỳ về việc sản xuất và buôn bán các 
sản phẩm nhạy cảm ở các nước khác. Việc theo dõi những mặt hàng và thông tin đăng tải trên 
báo chí cũng rất hữu ích. Tất cả những thông tin đó có thể cảnh báo trước về một cuộc điều 
tra áp dụng biện pháp tự vệ sắp được tiến hành. 
- Khi công việc điều tra được tiến hành, các doanh nghiệp phải trình bày vấn đề trước 
các cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, doanh nghiệp cần chuẩn bị đầy đủ bằng chứng, chứng 
cứ, thông tin, ý kiến đóng gópđể sử dụng khi cần thiết. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tranh chấp về Chống bán phá giá trong WTO, Hội đồng Tư vấn về Phòng vệ 
Thương mại (Hội đồng TRC) thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2013. 
2. Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, VCCI, 2016 
3. Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 11/ 06/ 2002 về tự vệ trong nhập khẩu 
hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam 
4. Nghị định 150/2003/NĐ-CP ngày 8/12/2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh tự 
vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam 
5. Nghị định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền 
hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ 
6. Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ 
cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh. 
7. Luật Quản lý Ngoại Thương số 05/2017 /QH14 

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_tu_ve_thuong_mai_cua_viet_nam_ly_luan_va_thuc_tie.pdf