Chiến lược và khung đấu thầu cạnh tranh dự án điện mặt trời ở Việt Nam
Trong Quy hoạch phát triển điện lực 7 sửa đổi (PDP 7 sửa đổi)
ban hành năm 2016, Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu 12
gigawatt (GW) công suất điện mặt trời. Chính phủ cũng đề ra
các mục tiêu trung gian 850 megawatt (MW) điện mặt trời vào
năm 2020 và 4 GW vào năm 2025. Tuy nhiên, vào giữa năm
2019, Việt Nam đã đạt được mục tiêu của năm 2025 với công
suất đặt hơn 4,5 GW. Chính phủ hiện nay đang tính tới mục tiêu
cao hơn trong Quy hoạch phát triển điện lực 8 (PDP 8) từ 12 lên
18 GW. Mức gia tăng này chủ yếu xuất phát từ thực tế là trong
bối cảnh cụ thể, nguồn điện mặt trời (PV) có thể là nguồn phát
điện có chi phí thấp nhất ở Việt Nam. Dự kiến PDP 8 cho giai
đoạn 2020 – 2030 sẽ được công bố vào năm 2020.
4,5 GW dự án điện mặt trời đã xây dựng tại Việt Nam được phát
triển theo chính sách biểu giá điện năng lượng tái tạo ưu đãi
hòa lưới (feed-in-tariff (FIT)), chính sách này đã hết hiệu lực từ
giữa năm 2019. Giá FIT trong Hợp đồng mua bán điện (PPA)
là 0,0935 USD/kWh có thời hạn 20 năm (FIT 1) theo Thông tư
của Quyết định 11 do Bộ Công Thương (MOIT) ban hành. Dự
thảo Quyết định mới hiện đang được thảo luận (FIT 2). Tháng
11 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu MOIT (i) đề xuất
giá FIT thấp hơn cho các dự án đã ký PPA và có thể đưa vào
vận hành thương mại (COD) trước cuối năm 2020 và (ii) xây
dựng một cơ chế đấu thầu cạnh tranh, công khai và minh bạch
để giảm chi phí của nguồn điện mặt trời.
Từ năm 2018, Ngân hàng Thế giới đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam
trong quá trình chuyển đổi từ FIT sang đấu thầu cạnh tranh. Các
hạn chế chính được nhận diện trong triển khai điện mặt trời bền
vững với giá cả phải chăng được trình bày dưới đây.
a. Thiếu quy hoạch tập trung gây ra hạn chế về giải tỏa công
suất và hạn chế phát điện. Giữa PDP 7 sửa đổi và Quy
hoạch phát triển điện mặt trời của MOIT không có mối liên
kết rõ ràng. Quy hoạch phát triển điện mặt trời có công suất
điện mặt trời cao hơn nhiều so với đề xuất trong PDP 7 sửa
đổi. Quy hoạch truyền tải cũng không được phối hợp với
công suất nêu trong Quy hoạch phát triển điện mặt trời dẫn
đến hạn chế hơn nữa về tích hợp năng lượng tái tạo (VRE).
Thêm vào đó, theo cơ chế FIT, các đơn vị sản xuất điện độc
lập (IPP) quyết định vị trí đặt các dự án điện mặt trời và lập
nghiên cứu tích hợp lưới điện được Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) phê duyệt. Vì vậy, do EVN không biết dự án nào
sẽ COD, họ đánh giá các dự án một cách riêng lẻ, hết dự án
này đến dự án khác mà không đánh giá được một cách tổng
thể. Thách thức này dẫn tới việc 4,5 GW điện mặt trời được
xây dựng ngoài dự kiến, gấp 5 lần khối lượng quy hoạch
trong PDP 7 sửa đổi. Các dự án này hiện đang phải đối mặt
với việc bị hạn chế nghiêm trọng và thiếu công suất truyền
tải theo kế hoạch của EVN.
b. Thiếu thông số rõ ràng và thống nhất để đánh giá chất
lượng các dự án. Không xây dựng trần công suất điện mặt
trời ở từng tỉnh và cũng không có các thông số thống nhất
giữa các tỉnh để đánh giá chất lượng các đề xuất dự án điện
mặt trời của IPP. Do đó, khi nhận được số lượng đề xuất vượt
quá công suất mục tiêu trong PDP 7 sửa đổi, quy trình lựa
chọn những dự án cần được bổ sung vào Quy hoạch phát
triển điện mặt trời và nhận giấy phép đầu tư giữa các tỉnh
không hài hòa với nhau.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chiến lược và khung đấu thầu cạnh tranh dự án điện mặt trời ở Việt Nam
giá thị trường giao ngay do SMO hỗ trợ. c. Thu hút nguồn tài chính quốc tế. Các tổ chức tài chính và nhà đầu tư có thể không chấp nhận các PPA dựa trên Hợp đồng sai khác thay cho PPA vật lý. Thị trường tài chính, bao gồm các tổ chức tài chính quốc tế, phải có niềm tin vào các quy định thị trường của VWEM, do đó thị trường cần phải thể hiện được sự trưởng thành và độ sâu thị trường như đã thảo luận ở trên. Do đó, tổ chức đấu thầu trong thời kỳ chuyển đổi từ PPA vật lý sang hợp đồng sai khác có thể dẫn đến giá điện cao hơn do vì các ứng thầu tính tới yếu tố không chắc chắn về thu nhập liên quan đến hiệu quả hoạt động của VWEM.3 Do đó, phù hợp với Quyết định 63, khuyến nghị các dự án điện mặt trời cần tiếp tục dựa vào PPA vật lý cho đến khi VWEM trưởng thành đầy đủ. CÁC CÂN NHẮC VỀ PHÁP LÝ Đối với các giai đoạn tiếp theo của VWEM, MOIT đã ban hành Thông tư số 45/2018/TT-BCT ngày 15 tháng 11 năm 2018, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019 (Thông tư 45) hướng dẫn hoạt động của VWEM. Hướng dẫn của Thông tư số 45 về hoạt động của VWEM bao gồm cả các dự án năng lượng tái tạo ngoài thủy điện. Theo hướng dẫn này, các dự án năng lượng tái tạo ngoài thủy điện có công suất đặt lớn hơn 30 MW có thể “chọn tham gia” vào VWEM. Trong trường hợp chọn tham gia thì các dự án này phải tuân thủ các yêu cầu về pháp lý và quy định đối với các nhà máy điện tham gia vào VWEM. Đối với các dự án năng lượng tái tạo ngoài thủy điện khác (chẳng hạn như những dự án có công suất đặt dưới 30MW), có thể chọn tham gia gián tiếp vào VWEM – nghĩa là không cần chào giá trực tiếp và không áp dụng cơ chế biểu giá của VWEM. Bước tiếp theo là bổ sung khung pháp lý để thực hiện, Cục Điều tiết điện lực (ERAV) cần xây dựng các hướng dẫn về việc tham gia cụ thể là áp dụng cho các dự án điện tái tạo ngoài thủy điện. KHUYẾN NGHỊ TỪ GÓC ĐỘ PHÁP LÝ Theo mô hình PPA hiện nay cho các dự án điện mặt trời, bên bán điện của các dự án điện mặt trời có quyền chọn tham gia vào thị trường bán buôn điện như đã nêu trong các quy định hiện hành về thị trường điện cạnh tranh. Nếu chọn tham gia vào VWEM, bên bán điện cần gửi thông báo trước bằng văn bản 120 ngày cho bên mua điện và cho ERAV. Trong trường hợp đó, các bên tham gia PPA có thể đơn phương chấm dứt PPA hiện có. Cơ chế này đưa ra làm phương án thay thế cho bên bán điện mặt trời cân nhắc.4 Như vậy, Chính phủ Việt Nam có thể xem xét tiếp tục áp dụng PPA vật lý này cho khung đấu giá mặt trời. Nếu Chính phủ muốn khuyến khích các nhà phát triển điện mặt trời tham gia vào VWEM khi thị trường đã trưởng thành, Chính phủ cần cân nhắc vấn đề ưu đãi cho các dự án điện mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo khác ngoài thủy điện. Ngoài việc giải quyết rủi ro tín dụng đối tác liên quan tới SMO và những vấn đề khác, Chính phủ có thể xem xét tới việc đưa vào khung hợp đồng một cơ chế bảo vệ rõ ràng trước những thay đổi luật pháp. Đơn vị phát triển trong những dự án có giá điện cố định được đảm bảo trong chương trình đấu giá điện mặt trời (cũng như chương trình FIT) muốn biết là Chính phủ và các bên mua điện khác (bên bao tiêu) có chịu những rủi ro do thay đổi pháp luật kể từ ngày thực hiện PPA. Cần có đảm bảo cần thiết bằng cách đưa vào PPA hoặc khung pháp lý một quy định cụ thể về thay đổi luật và điều chỉnh thanh toán tiền điện trong thời gian chuyển dịch từ PPA vật lý trong chương trình đấu giá điện mặt trời sang PPA tài chính trong VWEM. 4. Thông tư 16/2017/TT-BCT của Bộ Công Thương, Phụ lục II, Điều 9.3.3. Điều 4.2 và 4.3(b) Thông tư 45. 34 | Chiến lược và Khung đấu thầu cạnh tranh dự án điện mặt trời ở Việt Nam cao không lớn hơn 2.000 mét, độ dốc dưới 5 độ, mật độ dân số dưới 400 người trên km2,. Khu vực được bảo vệ phải cách địa điểm dự án tối thiểu 1 km và mức độ che phủ đất được phân loại dựa trên mục đích sử dụng. Để giảm bớt các hạn chế tiềm tàng trong khu vực dự án, phân tích đã giảm 75% diện tích đất được xác định. Phân tích này sẽ yêu cầu làm việc thêm với các tỉnh để xác định được khu vực đất phù hợp nhất cho các dự án điện mặt trời tiềm năng. Sau đó, phân tích về tính sẵn sàng của mặt bằng được hợp nhất với dữ liệu bức xạ mặt trời.5 Ngoài cường độ mặt trời cao là yếu tố quyết định quan trọng đến giá cả PPA thấp, dự án cần xây dựng trên những vùng đất khô cằn không lý tưởng cho sử dụng nông nghiệp. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH KHÔNG GIAN ĐỊA LÝ PHỤ LỤC 2 Phụ lục này trình bày kết quả phân tích không gian địa lý trên toàn quốc được tiến hành để xác định nơi nguồn điện mặt trời có thể và cần được phát triển dựa vào cường độ mặt trời, phát triển lưới điện, và mức độ đáp ứng về đất đai và mái nhà. Phân tích không gian địa lý kết hợp tiềm năng bức xạ mặt trời của Việt Nam với dữ liệu về sử dụng đất và độ che phủ đất. Nó cũng xem xét các yếu tố như độ cao, độ dốc, mức độ gần các trung tâm đô thị và các khu vực được bảo vệ. Bốn loại đất được xác định phù hợp để phát triển điện mặt trời và được sử dụng trong phân tích: (i) đất nông nghiệp (cây hàng năm, cây lâu năm và đất nông nghiệp), (ii) đất lâm nghiệp (sản xuất gỗ), (iii) đất đô thị và đất đã xây dựng (thành phố, cộng với đất được sử dụng để sản xuất điện hoặc tưới tiêu) và (iv) đất chưa sử dụng (đất cằn cỗi, bãi chăn thả). Tiêu chí chính về mặt bằng sẵn có là độ 5. Bộ dữ liệu kết quả từ phân tích không gian địa lý được cung cấp dưới dạng dữ liệu không gian địa lý theo định dạng KMZ. Chiến lược và Khung đấu thầu cạnh tranh dự án điện mặt trời ở Việt Nam | 35 BẢNG A2.1. Các tỉnh và tiềm năng công suất đặt điện mặt trời (GW): tiềm năng rất tốt TÊN TỈNH CÔNG SUẤT (GW) Bình Phước 47,23 Tây Ninh 24,22 Gia Lai 14,65 Bình Thuận 14,19 Đăk Lăk 12,60 Lâm Đồng 6,53 Ninh Thuận 5,52 Khánh Hòa 3,04 Kon Tum 2,64 Bà Rịa- Vũng Tàu 2,16 Đồng Nai 1,50 Bình Dương 1,27 Nguồn: Ngân hàng Thế giới. HÌNH A2.1. Các khu vực có cường độ mặt trời tốt nhất HÌNH A2.2. Các khu vực có cường độ mặt trời rất tốt CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH Cường độ bức xạ mặt trời tốt nhất Cường độ mặt trời tốt nhất (>4,4 kWh/m2/ngày) tập trung ở hai tỉnh: Ninh Thuận và Bình Thuận (hình A2.1). Ở Ninh Thuận có sẵn mặt bằng để sản xuất 5 GW và ở Ninh Thuận là 20 GW. Các loại đất sẵn có chủ yếu ở hai tỉnh này là đất chưa sử dụng và đất nông nghiệp. Có bốn trạm biến áp điện lưới với điện áp từ 220 kV đến 500 kV. Hầu hết mặt bằng nằm trong bán kính 20 km của trạm biến áp. Cả hai thành phố thuộc tỉnh, Phan Thiết và Phan Rang- Tháp Chàm đều có nhu cầu phụ tải và đường dây truyền tải chính là trục 500 kV giúp quản lý điều độ tốt với các vùng còn lại của đất nước. Cường độ bức xạ mặt trời rất tốt Cường độ mặt trời rất tốt của Việt Nam (4,2-4,4kWh/m2/ngày) tập trung ở 12 tỉnh (bảng A2.1 và hình A2.2), với tiềm năng hàng đầu 47 GW ở các tỉnh Bình Phước, 24 GW ở Tây Ninh, 14 GW ở Gia Lai, và 14 GW ở Bình Thuận. Đất chủ yếu là đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp và rừng sản xuất. Có 18 trạm biến áp có điện áp từ 220 đến 500 kV tại 12 tỉnh trên. Hầu hết mặt bằng nằm trong bán kính 20 km của trạm biến áp. Các thành phố thuộc tỉnh đều có nhu cầu phụ tải, đường dây truyền tải chính là trục 500 kV giúp phép quản lý điều độ tốt hơn với các vùng còn lại của đất nước. 36 | Chiến lược và Khung đấu thầu cạnh tranh dự án điện mặt trời ở Việt Nam Cường độ bức xạ mặt trời tốt Cường độ mặt trời tốt (4–4,2 kWh/m2/ngày) có ở 19 tỉnh (bảng A2.2 và hình A2.3), với tiềm năng lớn nhất ở Gia Lai (55GW), Đắk Nông (44GW), và Đắk Lắk (40 GW). Hầu hết đất đai sẵn có là các loại đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp và rừng sản xuất. Ở 19 tỉnh này có 23 trạm biến áp điện áp từ 220 đến 500 kV. Hầu hết mặt bằng đều nằm trong bán kính 20 km của trạm biến áp. Điện mặt trời nổi Điện mặt trời nổi (FSPV) đang được sử dụng ngày càng nhiều để giảm nhu cầu về đất (1 MWp công suất lắp đặt tại Việt Nam cần khoảng 1,5 ha đất) và thuận lợi vì cùng vị trí với nhà máy thủy điện và từ đó cải thiện điều độ VRE. 6. Nghiên cứu về điện mặt trời nổi của Ngân hàng Thế giới được công bố năm 2019 với tên gọi Nơi mặt trời gặp nước: Báo cáo về điện mặt trời nổi. Báo cáo tóm tắt được công bố năm 2018 (với cùng tiêu đề). BẢNGE A2.2. Các tỉnh và tiềm năng công suất đặt điện mặt trời (GW): tiềm năng tốt TÊN TỈNH CÔNG SUẤT (GW) Gia Lai 54,69 Đăk Nông 44,60 Đăk Lăk 40,75 Bình Phước 27,80 Đồng Nai 25,05 Bình Dương 22,81 Long An 21,06 Lâm Đồng 20,22 Kon Tum 17,66 Bình Thuận 13,11 Bà Rịa- Vũng Tàu 7,19 Bến Tre 6,91 Trà Vinh 6,34 Khánh Hòa 5,59 Tây Ninh 3,65 Tiền Giang 3,17 Sóc Trăng 3,02 Thành phố Hồ Chí Minh 2,82 Đồng Tháp 1,17 Nguồn: Ngân hàng Thế giới. HÌNH A2.3. Các khu vực có cường độ mặt trời tốt Mặc dù chi phí EPC của FSPV hiện tại ước tính cao hơn khoảng 10–20% so với các nhà máy lắp trên mặt đất do ít cạnh tranh trong sản xuất thiết bị và cần phải sử dụng cơ cấu neo đắt tiền, các chi phí gia tăng này được bù đắp một phần từ tăng 10–12% sản xuất năng lượng nhờ hiệu ứng làm mát và giảm bụi do nước xung quanh gây ra (Nhóm Ngân hàng Thế giới, ESMAP và SERIS, Nơi mặt trời gặp nước: Báo cáo về thị trường điện mặt trời nổi, 2018). Hiệu suất tăng cao nhất ở vùng khí hậu nóng như Đông Nam Á, trong đó hiệu ứng làm mát quan trọng nhất.6 Chiến lược và Khung đấu thầu cạnh tranh dự án điện mặt trời ở Việt Nam | 37 HÌNH A2.4. Tiềm năng điện mặt trời nổiĐiện mặt trời nổi tại cùng địa điểm với nguồn thủy điện mang lại nhiều thuận lợi như tối đa hóa cơ sở hạ tầng và kết nối lưới của nhà máy thủy điện, giảm thiểu tác động của những thay đổi theo mùa trong sản xuất điện, hỗ trợ phụ tải giờ cao điểm ban ngày và dự trữ nhiều thủy điện hơn cho giờ cao điểm buổi tối. Việt Nam có chín hồ thủy điện có công suất lớn hơn 100 MW. Hai trong số đó, hồ Trị An và Thác Mơ, đáp ứng các yêu cầu về cường độ bức xạ mặt trời (thể hiện bằng PVout) tối thiểu là 4 kWh/m2/ngày và không nên che phủ hơn 20 phần trăm diện tích hồ chứa. Tổng công suất tiềm năng của hai hồ này khoảng 4,5 GW. 38 | Chiến lược và Khung đấu thầu cạnh tranh dự án điện mặt trời ở Việt Nam PHÂN TÍCH CHUỖI CUNG ỨNG ĐIỆN MẶT TRỜI PHỤ LỤC 3 Phụ lục 3 trình bày các kết quả chính của Đánh giá chuỗi cung ứng điện mặt trời tại Việt Nam do Ngân hàng Thế giới ủy quyền thực hiện năm 2018. PHÂN TÍCH Điện mặt trời là một lĩnh vực đã trưởng thành và phát triển nhanh dựa trên công nghệ wafer silicon tinh thể đơn. Mặc dù Trung Quốc, Châu Âu và Mỹ là những thị trường chính nhưng 80 phần trăm các mô đun được sản xuất ở châu Á. Tại Việt Nam, các mô đun được sản xuất phối hợp với các nhà sản xuất Trung Quốc và Mỹ. Năm 2017 có 5 GW tấm năng lượng mặt trời sản xuất tại Việt Nam, chiếm 7% thị trường toàn cầu. Thị trường điện mặt trời trong nước kỳ vọng sẽ đạt đỉnh khoảng 1,8 GW/năm theo các mục tiêu đề ra trong PDP 7 sửa đổi. Công suất sản xuất mô-đun trong nước, hiện nay đang dành hoàn toàn cho xuất khẩu vào khoảng 5,2 GW/năm, gấp ba lần công suất tối đa dự kiến của thị trường trong nước. Trong bối cảnh đó, do quy mô các nhà máy thông thường, chỉ số ít các nhà máy sản xuất linh kiện có thể bán cho thị trường nội địa, còn phần lớn vẫn phải dựa vào xuất khẩu. Nhưng điều quan trọng là vạch ra một lộ trình rõ ràng cho 12 GW điện mặt trời sẽ khuyến khích hình thành các công ty EPC và các công ty dịch vụ khác trong nước tại Việt Nam để xây dựng các nhà máy theo quy hoạch (hình A3.1). Xây dựng, vận hành, bảo trì và sản xuất cho thị trường trong nước có khả năng tăng GDP của Việt Nam lên khoảng 0,25 % vào năm 2030 và tạo ra hơn 25.000 việc làm. NHỮNG PHÁT HIỆN CHÍNH Sức hấp dẫn ngành của Việt Nam. Khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong sản xuất điện mặt trời đã được đánh giá dựa trên bốn thông số để so sánh với các quốc gia được chọn làm cơ sở (Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Hoa Kỳ). Bốn thông số đó là: (i) yếu tố sản xuất (mức độ sẵn sàng và chi phí nguyên vật liệu, lực lượng lao động và vốn); (ii) yếu tố nhu cầu (thị trường trong nước và xuất khẩu); (iii) yếu tố rủi ro và ổn định (rủi ro quốc gia, lạm phát, khung quy định cho năng lượng tái tạo) ; (iv) các yếu tố hỗ trợ kinh doanh (cơ sở hạ tầng, vị trí của ngành trong nền kinh tế, đổi mới và khả năng cạnh tranh). Khả năng cạnh tranh của Việt Nam đi sau Trung Quốc, Malay- sia, và Thái Lan trong tất cả các lĩnh vực của điện mặt trời trừ khung và cơ cấu. Thế mạnh chính của Việt Nam là các yếu tố sản xuất, đặc biệt là thị trường lao động, mức độ sẵn sàng của các nguyên liệu cho ngành điện mặt trời (đặc biệt là thép), và chi phí năng lượng dễ chịu đối với hộ tiêu dùng công nghiệp. Sản xuất mô-đun, tế bào quang điện, thanh silic/wafer, và cuối cùng là biến tần chủ yếu dành để xuất khẩu và sẽ phát triển độc lập với xây dựng các dtự án điện mặt trời trong nước. Cơ cấu và dịch vụ (như phát triển dự án, kỹ thuật, thiết kế và O&M) sẽ phát triển để phục vụ thị trường trong nước. Tiềm năng tạo việc làm. Mục tiêu 12 GW điện mặt trời dự kiến sẽ hỗ trợ tạo ra 25.000 việc làm toàn thời gian trong phát triển dự án, dịch vụ và O&M hàng năm trong giai đoạn đến năm 2030. Việc làm liên quan đến phát triển điện mặt trời tại Việt Nam được tạo ra từ (i) phát triển và vận hành các nhà máy điện mặt trời và Chiến lược và Khung đấu thầu cạnh tranh dự án điện mặt trời ở Việt Nam | 39 (ii) sản xuất thiết bị. Loại đầu tiên bao gồm các việc làm khi phát triển, thiết kế, xây dựng và vận hành các nhà máy điện mặt trời. Các công việc được tạo ra liên quan đến thực hiện dự án mang tính tạm thời và biến mất khi nhà máy được đưa vào vận hành và phát điện. Sau giai đoạn thực hiện là O&M, kéo dài theo thời gian tuổi thọ của nhà máy. Việc làm tạo ra trong lĩnh vực sản xuất dự kiến sẽ đạt gần 20.000 việc làm toàn thời gian đến năm 2030. Hầu hết các việc làm này được định hướng xuất khẩu và phụ thuộc vào Việt Nam duy trì thị phần hiện tại của mình trong thị trường điện mặt trời toàn cầu. Điều này lại phụ thuộc trở lại vào việc quốc gia duy trì được sức hấp dẫn của mình đối với các hãng sản xuất tấm năng lượng mặt trời quốc tế. Operations and maintenance Design, engineering, construction Project development Wholesale distribution Electrical components Easy to develop Intermediate Di cult to reach Mounting BIPV tracking Education, engineering Publishing, trade and industry organizations Specialized consulting, testing, design, O&M, R&D, financing Manufacturing equipment Poly- silicon Ingots & wafers Chrystalline module Materials and chemicals for water, cell and module production PV cell Software Solar glass Substrate Multi- junction cell Protective cover Thin-film module Concentrating PV module (CPV) HÌNH A3.1. Hoạt động kinh tế liên quan đến việc Việt Nam theo đuổi mục tiêu 12 GW điện mặt trời Nguồn: Ngân hàng Thế giới. 2018. Đánh giá chuỗi cung cấp điện mặt trời của Việt Nam
File đính kèm:
- chien_luoc_va_khung_dau_thau_canh_tranh_du_an_dien_mat_troi.pdf