Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết khảo sát tình hình sử dụng chiến lược học tập (CLHT) tiếng Hoa của sinh viên (SV)

dân tộc Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM), mối quan hệ giữa giới tính, tuổi tác, thành tích

học tập và việc sử dụng CLHT tiếng Hoa. Kết quả cho thấy SV thường sử dụng các nhóm chiến lược

nhận thức, siêu nhận thức và xã hội, ít sử dụng nhóm chiến lược xúc cảm. Giới tính và tuổi tác không

ảnh hưởng đến việc sử dụng CLHT. Tần suất sử dụng nhóm chiến lược nhận thức có ảnh hưởng đến

thành tích học tập.

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 7

Trang 7

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 8

Trang 8

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 9

Trang 9

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 4860
Bạn đang xem tài liệu "Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh

Chiến lược học tập tiếng Hoa của sinh viên dân tộc Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh
uộc hai nhóm tuổi trên như sau (xem Bảng 3): 
Bảng 3. Tình hình sử dụng CLHT tiếng Hoa theo tuổi tác 
Nhóm chiến lược Giới tính Mean SD t p 
Nhóm chiến lược 
ghi nhớ 
18-20 3,4419 0,73722 -0,595 0,554 21-23 3,5463 0,58878 
Nhóm chiến lược 
nhận thức 
18-20 3,8555 0,64915 -0,292 0,771 21-23 3,8988 0,43724 
Nhóm chiến lược 
bù đắp 
18-20 3,4031 0,67772 -1,305 0,196 21-23 3,6181 0,58458 
Nhóm chiến lược 
siêu nhận thức 
18-20 3,9509 0,76953 0,036 0,971 21-23 3,9444 0,57502 
Nhóm chiến lược 
xúc cảm 
18-20 3,1899 0,88085 -0,718 0,475 21-23 3,3403 0,70107 
Nhóm chiến lược 
xã hội 
18-20 4,0543 0,74600 1,068 0,289 21-23 3,8542 0,71443 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Lưu Hớn Vũ
803 
Bảng 3 cho thấy SV thuộc nhóm tuổi 18-20 có tần suất sử dụng nhóm chiến lược siêu 
nhận thức, nhóm chiến lược xã hội cao hơn SV thuộc nhóm tuổi 21-23, song lại có tần suất 
sử dụng nhóm chiến lược ghi nhớ, nhóm chiến lược nhận thức, nhóm chiến lược bù đắp và 
nhóm chiến lược xúc cảm thấp hơn SV thuộc nhóm tuổi 21-23. Kiểm định giả thuyết về trị 
trung bình của hai tổng thể – trường hợp mẫu độc lập cho thấy, không có sự khác biệt có ý 
nghĩa trong việc sử dụng CLHT tiếng Hoa giữa SV thuộc nhóm tuổi 18-20 và SV thuộc 
nhóm tuổi 21-23 (p > 0,05). Nói cách khác, tuổi tác không phải là nhân tố ảnh hưởng đến 
việc sử dụng CLHT tiếng Hoa của SV dân tộc Hoa tại TPHCM. 
3.3. Mối quan hệ giữa thành tích học tập và việc sử dụng chiến lược học tập tiếng Hoa 
Chúng tôi sử dụng phân tích tương quan Pearson để kiểm định mối tương quan giữa 
thành tích học tập và việc sử dụng CLHT tiếng Hoa của SV dân tộc Hoa tại TPHCM. Kết 
quả như sau (xem Bảng 4): 
Bảng 4. Phân tích mối tương quan giữa thành tích học tập và CLHT tiếng Hoa 
Nhóm 
 chiến lược 
ghi nhớ 
Nhóm 
 chiến lược 
nhận thức 
Nhóm 
 chiến lược 
bù đắp 
Nhóm 
 chiến lược 
siêu nhận 
thức 
Nhóm 
 chiến lược 
xúc cảm 
Nhóm 
chiến lược 
xã hội 
Pearson 
Correlation 0,030 0,338 0,130 0,168 -0,042 0,102 
Sig. (2-tailed) 0,810 0,005 0,294 0,174 0,734 0,413 
Bảng 4 cho thấy việc sử dụng nhóm chiến lược nhận thức và thành tích học tập tiếng 
Hoa của SV dân tộc Hoa tại TPHCM có mối tương quan với nhau (p < 0,05). Điều này cho 
thấy tần suất sử dụng nhóm chiến lược nhận thức có ảnh hưởng nhất định đến thành tích học 
tập tiếng Hoa của SV dân tộc Hoa tại TPHCM. SV nào thường xuyên sử dụng nhóm chiến 
lược này sẽ có thành tích học tập tiếng Hoa cao hơn, ngược lại, những SV ít sử dụng nhóm 
chiến lược này sẽ có thành tích học tập tiếng Hoa thấp hơn. 
4. Thảo luận 
4.1. Tình hình sử dụng chiến lược học tập tiếng Hoa 
Kết quả điều tra cho thấy SV dân tộc Hoa tại TPHCM thường xuyên sử dụng nhóm 
chiến lược nhận thức, nhóm chiến lược siêu nhận thức và nhóm chiến lược xã hội, kế đến là 
nhóm chiến lược ghi nhớ và nhóm chiến lược bù đắp, ít sử dụng nhất là nhóm chiến lược 
xúc cảm. 
Nhóm chiến lược xã hội là một trong những nhóm chiến lược thường dùng nhất của 
SV dân tộc Hoa tại TPHCM. Kết quả này giống với các kết quả nghiên cứu của Jiang Xin 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 11 (2019): 799-808
804 
(2000) và Wang Yao-mei (2013). Jiang Xin (2000) và Wang Yao-mei (2000) đều cho rằng 
môi trường sống đã ảnh hưởng đến việc sử dụng nhóm chiến lược xã hội, làm cho nhóm 
chiến lược này có tần suất sử dụng cao. SV dân tộc Hoa tại TPHCM sinh sống trong cộng 
đồng người Hoa, phải sử dụng tiếng Hoa để giao tiếp với các cá thể khác trong cộng đồng, 
để đạt được mục đích giao tiếp, SV dân tộc Hoa cần sử dụng nhóm chiến lược xã hội. 
Nhóm chiến lược siêu nhận thức cũng là một trong những nhóm chiến lược thường 
dùng nhất của SV dân tộc Hoa tại TPHCM. Kết quả này giống với các kết quả nghiên cứu 
của Jiang Xin (2000), Lin Ke và Lu Xia (2005), Ding An-qi và Wu Si-na (2011). SV dân tộc 
Hoa tại TPHCM là những người đã trưởng thành, có mục đích học tập rõ ràng, có năng lực 
tự quản lí, tự giám sát và tự đánh giá tương đối cao. Đây chính là điều kiện tốt để vận dụng 
hữu hiệu nhóm chiến lược siêu nhận thức trong quá trình học tiếng Hoa. 
SV dân tộc Hoa tại TPHCM cũng thường xuyên sử dụng nhóm chiến lược nhận thức. 
Kết quả này giống với kết quả nghiên cứu của Wu Yong-yi và Chen Yu (2005), song không 
giống với kết quả nghiên cứu của Jiang Xin (2000), Lin Ke và Lu Xia (2005). Polizer (1983) 
cho rằng, mô hình giảng dạy lấy người dạy làm trung tâm sẽ làm tăng tần suất sử dụng nhóm 
chiến lược nhận thức của người học, đồng thời làm giảm tần suất sử dụng nhóm chiến lược 
xã hội của người học; mô hình giảng dạy lấy người học làm trung tâm sẽ làm tăng tần suất 
sử dụng nhóm chiến lược xã hội, nhóm chiến lược xúc cảm của người học. Tần suất sử dụng 
các nhóm CLHT của người học cũng phần nào phản ánh triết lí, mô hình giảng dạy của giảng 
viên và nhà trường (Chen Lin & Li Ai-ling, 2017). Giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục 
tiếng Hoa tại TPHCM nói riêng đã sử dụng mô hình giảng dạy lấy người dạy làm trung tâm 
trong một thời gian dài. Có thể, đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng SV dân tộc Hoa 
tại TPHCM thường xuyên sử dụng nhóm chiến lược nhận thức. 
SV dân tộc Hoa tại TPHCM không thường xuyên sử dụng nhóm chiến lược bù đắp. 
Kết quả này giống với kết quả nghiên cứu của Lin Ke và Lu Xia (2005), không giống với 
các kết quả nghiên cứu của Jiang Xin (2000), Wu Yong-yi và Chen Yu (2005). Nhóm chiến 
lược bù đắp là các phương thức người học sử dụng để bù đắp những khiếm khuyết về kiến 
thức ngôn ngữ của mình, như dựa vào các thông tin trước sau của văn bản để đoán nghĩa của 
từ mới có trong văn bản, sử dụng các từ ngữ đã biết hoặc sử dụng các ngôn ngữ hình thể để 
diễn đạt ý nghĩa của một từ ngữ chưa được học... Điều đáng lưu ý là chiến lược “khi tôi 
không nghĩ ra được cách biểu đạt bằng tiếng Hoa, tôi sẽ tự tạo ra từ mới” có trị trung bình 
thấp nhất trong nhóm chiến lược bù đắp (Mean = 2,522). Có thể thấy, SV dân tộc Hoa tại 
TPHCM tích cực vận dụng các phương thức khác nhau để giao tiếp bằng tiếng Hoa, song 
cũng khá cẩn trọng trong việc tự sáng tạo ra từ mới. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Lưu Hớn Vũ
805 
SV dân tộc Hoa tại TPHCM cũng không thường xuyên sử dụng nhóm chiến lược ghi 
nhớ. Kết quả này giống với các kết quả nghiên cứu của Jiang Xin (2000), Lin Ke và Lu Xia 
(2005), Wu Yong-yi và Chen Yu (2005). Đây có thể là vì SV chưa được hướng dẫn cụ thể 
về cách thức sử dụng các chiến lược ghi nhớ. 
Nhóm chiến lược xúc cảm cũng là nhóm chiến lược ít được SV dân tộc Hoa tại 
TPHCM sử dụng. Kết quả này giống với các kết quả nghiên cứu của Jiang Xin (2000), Lin 
Ke và Lu Xia (2005), Wu Yong-yi và Chen Yu (2005), Wang Yao-mei (2013). Mặc dù nhân 
tố xúc cảm có ảnh hưởng rất lớn đối với việc học tiếng Hoa, song SV dân tộc Hoa tại TPHCM 
vẫn chưa ý thức được điều này. Trong quá trình học tiếng Hoa, SV không biết kiểm soát 
hoặc có thể không biết làm thế nào để kiểm soát các xúc cảm của mình. 
4.2. Mối quan hệ giữa các nhân tố cá thể và việc sử dụng chiến lược học tập 
tiếng Hoa 
Giới tính không ảnh hưởng đến việc sử dụng CLHT tiếng Hoa của SV dân tộc Hoa tại 
TPHCM. Kết quả này giống với các kết quả nghiên cứu của Jiang Xin (2000), Ding An-qi 
và Wu Si-na (2011), Chen Lin và Li Ai-ling (2017), không giống với các kết quả nghiên cứu 
của Oxford và Nyikos (1989), Li Qiang, Yao Yi-ru và Liu Nai-zhong (2011). Nghiên cứu 
của Oxford và Nyikos (1989) phát hiện SV nữ thường xuyên sử dụng CLHT hơn SV nam, 
đặc biệt là nhóm chiến lược xã hội. Nghiên cứu của Li Qiang, Yao Yi-ru và Liu Nai-zhong 
(2011) lại phát hiện, SV nữ thường xuyên sử dụng nhóm chiến lược bù đắp và nhóm chiến 
lược siêu nhận thức hơn SV nam. Qua đó cho thấy các kết quả nghiên cứu hiện nay vẫn có 
sự tranh luận về ảnh hưởng của giới tính đối với việc sử dụng CLHT, rất có thể trong mối 
quan hệ giữa giới tính và CLHT còn tồn tại các nhân tố trung gian. 
Tuổi tác cũng không ảnh hưởng đến việc sử dụng CLHT tiếng Hoa của SV dân tộc 
Hoa tại TPHCM. Kết quả này không giống với kết quả nghiên cứu của Wang Yao-mei 
(2013). Wang Yao-mei (2013) chia người học thành 3 nhóm tuổi: 18-20, 21-24, 25-29. Tác 
giả phát hiện có sự khác biệt có ý nghĩa trong việc sử dụng nhóm chiến lược ghi nhớ, nhóm 
chiến lược bù đắp và nhóm chiến lược xã hội giữa các nhóm tuổi. Nghiên cứu của chúng tôi 
chỉ có hai nhóm tuổi là 18-20 và 21-23, nếu bổ sung thêm nhóm tuổi 25-29, rất có thể sẽ có 
sự khác biệt có ý nghĩa trong việc sử dụng CLHT theo tuổi tác. 
4.3. Mối quan hệ giữa thành tích học tập và việc sử dụng chiến lược học tập tiếng Hoa 
Tần suất sử dụng nhóm chiến lược nhận thức có ảnh hưởng đến thành tích học tập 
tiếng Hoa của SV dân tộc Hoa tại TPHCM. Kết quả này giống với các kết quả nghiên cứu 
của Wu Yong-yi và Chen Yu (2005), Wang Yao-mei (2013). Tần suất sử dụng nhóm chiến 
lược nhận thức có quan hệ trực tiếp đến việc học tập và thụ đắc tiếng Hoa, việc sử dụng 
nhóm chiến lược này đòi hỏi phải có một trình độ tiếng Hoa nhất định, SV có thành tích học 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 11 (2019): 799-808
806 
tập càng cao sẽ càng dễ dàng vận dụng nhóm CLHT này, và ngược lại, SV có thành tích học 
tập kém sẽ khó vận dụng được nhóm chiến lược này, thậm chí không vận dụng được. 
5. Kết luận 
Kết quả nghiên cứu cho thấy: i) Tần suất sử dụng chiến lược học tiếng Hoa của SV 
dân tộc Hoa tại TPHCM tương đối cao, nhóm chiến lược thường sử dụng nhất là nhóm chiến 
lược nhận thức, nhóm chiến lược siêu nhận thức và nhóm chiến lược xã hội, kế đến là nhóm 
chiến lược ghi nhớ và nhóm chiến lược bù đắp, nhóm chiến lược ít sử dụng nhất là nhóm 
chiến lược xúc cảm; ii) Các nhân tố cá thể như giới tính, tuổi tác không ảnh hưởng đến việc 
sử dụng CLHT tiếng Hoa của SV dân tộc Hoa tại TPHCM; và iii) Tần suất sử dụng nhóm 
chiến lược nhận thức có ảnh hưởng đến thành tích học tập tiếng Hoa của SV dân tộc Hoa tại 
TPHCM. 
Khi giảng dạy tiếng Hoa cho SV dân tộc Hoa, giảng viên cần chú ý bồi dưỡng cho SV 
việc sử dụng các CLHT, giúp SV giảm bớt các lo lắng trong học tập, hiểu rõ hơn về trạng 
thái xúc cảm của mình. Đồng thời, giảng viên cũng cần tăng cường bồi dưỡng nhóm chiến 
lược nhận thức cho SV, nâng cao mức độ sử dụng CLHT của SV. Ngoài ra, trong quá trình 
giảng dạy, giảng viên cần thường xuyên bồi dưỡng nhóm chiến lược siêu nhận thức cho SV, 
khuyến khích SV tự xây dựng kế hoạch học tập, tự đánh giá việc học tập của mình. 
 Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Chen Lin, & Li Ai-ling (2017). Learning Strategies of Indonesian - Chinese Learners in Different 
Learning Contexts [Bu tong Xuexi Qingjing zhong Yinni Liuxuesheng Hanyu Xuexi Celue 
Diaocha]. Overseas Chinese Education, (1). 
Ding An-qi, & Wu Si-na (2011). An Empirical Study of Chinese as a Second Language Learners 
[Hanyu Zuowei Di’Er Yuyan Xuexizhe Shizheng Yanjiu]. Beijing: World Publishing 
Corporation. 
Jiang Xin (2000). Chinese as a Second Language Learning Strategies [Hanyu Zuowei Di’Er Yuyan 
Xuexi Celue Chutan]. Language Teaching and Linguistic Studies, (1). 
Li Qiang, Yao Yi-ru, Liu Nai-zhong (2011). A Correlation Study of Chinese Learning Strategies and 
Individual Factors [Hanyu Xuexi Celue yu Geren Yinsu de Xiangguanxing Yanjiu]. Language 
Teaching and Linguistic Studies, (1). 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Lưu Hớn Vũ
807 
Lin Ke, & Lu Xia (2005). An Analysis of Chinese Language Learning Strategies by Vietnamese 
Students [Yuenan Liuxuesheng Hanyu Xuexi Celue Fenxi]. Journal of Chinese Language 
College of Jinan University, (4). 
Liu Ying (2017). A Survey of Chinese Learning Motivation and Learning Strategies of Thai Chinese 
Middle School Students in Meisui, Thailand [Taiguo Meisu shi Huayi Zhongxuesheng Hanyu 
Xuexi Dongji he Xuexi Celue Diaocha Yanjiu]. Master degree thesis of Jinan University. 
Oxford, R. L. (1989). Use of Language Learning Strategies: A synthesis of studies with implications 
for strategy training. System, 17(2). 
Oxford, R. L. & Nyikos, M. (1989). Variables Affecting Choice of Language Learning Strategies by 
University Students. Modern Language Journal, 73(3). 
Oxford, R. L. (1990). Language Learning Strategies: What Every Teacher Should Know. Rowley, 
Mass: Newbury House. 
Politzer, R. L. (1983). An Exploratory Study of Self Reported Language Learning Behaviors and 
their Relation to Achievement. Studies in Second Language Acquisition, 6(1). 
Wang Yao-mei (2013). A Study on The Chinese Learning Strategies of Foreign Students Who Come 
to China for Preparatory Courses [Lai Hua Yuke Liuxuesheng Hanyu Xuexi Celue Yanjiu]. 
Beijing: World Publishing Corporation. 
Wu Yong-yi, & Chen Yu (2005). An Analysis of Successful Chinese Learners' Learning Strategies. 
Print in Zhao Jin-ming (Eds). An All-round Exploration of Teaching Chinese as a Foreign 
Language - Proceedings of the Symposium on the study of Chinese as a foreign language 
[Duiwai Hanyu Jiaoxue de Quanfangwei Tansuo – Duiwai Hanyu Yanjiu Xueshu Taolunhui 
Lunwenji]. Beijing: The Commercial Press. 
Xie Qiao-yi (2012). A Survey of Chinese Learning Strategies of Indonesian Chinese Students [Yinni 
Huayi Xuesheng Hanyu Xuexi Celue Diaocha Yanjiu]. Master degree thesis of Guangxi 
Normal University. 
Xu Miao (2011). A Study on the Chinese Learning Situation of Thai Chinese Students in Universities 
in Northern Thailand - From the perspective of learning motivation and learning strategies 
[Taibei Gaoxiao Huayi Xuesheng Hanyu Xuexi Xianzhuang Yanjiu – Cong Xuexi Dongji he 
Xuexi Celue Jiaodu Kaocha]. Master degree thesis of Huazhong University of Science and 
Technology. 
Zhang Bo-hui (2017). A Survey of Chinese Learning Strategies of Thai Chinese and Thai Non 
Chinese High School Students in Northern Thailand [Tai Bei Huayi yu Fei Huayi 
Gaozhongsheng Hanyu Xuexi Celue Diaocha Yanjiu]. Master degree thesis Yunnan Normal 
University. 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 11 (2019): 799-808
808 
LEARNING STRATEGIES BY VIETNAMESE CHINESE STUDENTS 
IN HO CHI MINH CITY 
Luu Hon Vu 
Banking University of Ho Chi Minh City 
Corresponding author: Luu Hon Vu – Email: vulh@buh.edu.vn 
Received: January 10, 2019; Revised: February 22, 2019; Accepted: August 20, 2019 
ABSTRACT 
This article investigates how Vietnamese Chinese students in Ho Chi Minh city apply learning 
strategies and explores the relationship between genders, age, and academic achievements on the 
use of these learning strategies. The study found that the most commonly used learning strategies 
are cognitive strategies, meta-cognitive strategies and social strategies, and the least commonly used 
is emotional strategies. There is no difference between the gender and age in using learning 
strategies, but the frequency of using the cognitive strategies influenced students’ performances. 
Keywords: learning strategies; Chinese; Vietnamese Chinese students; Ho Chi Minh City 

File đính kèm:

  • pdfchien_luoc_hoc_tap_tieng_hoa_cua_sinh_vien_dan_toc_hoa_tai_t.pdf