Chiến lược học ngoại ngữ thứ hai – Tiếng Nhật của sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh, trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
Bài viết sử dụng Bảng điều tra chiến lược học ngôn ngữ do Oxford thiết kế, khảo
sát chiến lược học ngoại ngữ thứ hai – tiếng Nhật của sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh, Trường
Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh. Kết quả khảo sát cho thấy, sinh viên có tần suất sử dụng
chiến lược tương đối cao. Trong đó, nhóm chiến lược mà sinh viên sử dụng nhiều nhất là nhóm
chiến lược siêu nhận thức. kế đến là nhóm chiến lược xã hội, nhóm chiến lược nhận thức và
nhóm chiến lược ghi nhớ, ít sử dụng nhất là nhóm chiến lược xúc cảm và nhóm chiến lược bù
đắp. Không có sự khác biệt về giới tính và cấp lớp trong việc sử dụng chiến lược học ngoại ngữ
thứ hai – tiếng Nhật.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Chiến lược học ngoại ngữ thứ hai – Tiếng Nhật của sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh, trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chiến lược học ngoại ngữ thứ hai – Tiếng Nhật của sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh, trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
1.0 ~ 1.4 biểu thị “hoàn toàn không sử dụng”. Căn cứ vào cách phân nhóm của Oxford và kết quả ở bảng 1 chúng ta có thể thấy, về mặt tổng thể sinh viên SFL tiếng Nhật của BUH có tần suất sử dụng chiến lược tương đối cao (M = 3.5690). Trong đó, nhóm chiến lược siêu nhận thức (M = 3.8433), nhóm chiến lược xã hội (M = 3.6538), nhóm hiến lược nhận thức (M = 3.5989) và nhóm chiến lược ghi nhớ (M = 3.5470) đều có tần suất sử dụng ở mức “thường xuyên sử dụng”, nhóm chiến lược xúc cảm (M = 3.3483) và nhóm chiến lược bù đắp (M = 3.2564) đều có tần suất sử dụng ở mức “có khi sử dụng”. Sau khi tiến hành kiểm định trị trung bình của mẫu phối hợp từng cặp (Paired samples T-test) đối với 6 nhóm chiến lược, chúng tôi được kết quả điều tra như sau (xem bảng 2): Bảng 2. Kết quả kiểm định Paired samples T-test đối với 6 nhóm chiến lược SFL tiếng Nhật Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 51 Nhóm chiến lược nhận thức Nhóm chiến lược bù đắp Nhóm chiến lược siêu nhận thức Nhóm chiến lược xúc cảm Nhóm chiến lược xã hội Nhóm chiến lược ghi nhớ t = -0.920 p = 0.361 t = 3.393 p < 0.05 t = -4.310 p < 0.05 t = 3.030 p < 0.05 t = -1.652 p = 0.103 Nhóm chiến lược nhận thức ------- t = 4.675 p < 0.05 t = -4.573 p < 0.05 t = 4.242 p < 0.05 t = -0.911 p = 0.365 Nhóm chiến lược bù đắp ------- ------- t = -6.085 p < 0.05 t = -0.940 p = 0.350 t = -4.011 p < 0.05 Nhóm chiến lược siêu nhận thức ------- ------- ------- t = 7.700 p < 0.05 t = 3.061 p < 0.05 Nhóm chiến lược xúc cảm ------- ------- ------- ------- t = -4.375 p < 0.05 Bảng 2 cho thấy, thứ tự 6 nhóm chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên như sau: chiến lược siêu nhận thức > chiến lược xã hội, chiến lược nhận thức, chiến lược ghi nhớ > chiến lược xúc cảm, chiến lược bù đắp. Qua đó có thể thấy, trong quá trình học SFL tiếng Nhật, nhóm chiến lược mà sinh viên sử dụng nhiều nhất là nhóm chiến lược siêu nhận thức, kế đến là nhóm chiến lược xã hội, nhóm chiến lược nhận thức và nhóm chiến lược ghi nhớ, ít sử dụng nhất là nhóm chiến lược xúc cảm và nhóm chiến lược bù đắp. Sau khi sắp xếp tần suất sử dụng các chiến lược cụ thể theo trật tự từ cao xuống thấp, chúng tôi nhận thấy: Năm chiến lược có tần suất sử dụng cao nhất (M > 4.3) của sinh viên SFL tiếng Nhật lần lượt là Q10 “Tôi đọc hoặc viết từ mới nhiều lần” (M = 4.474; SD = 0.7512), Q33 “Tôi cố gắng tìm phương pháp để học tốt tiếng Nhật hơn” (M = 4.462; SD = 0.7677), Q45 “Nếu tôi nghe không hiểu người khác nói gì, tôi nhờ họ nói chậm hoặc nhắc lại” (M = 4.410; SD = 0.7105), Q12 “Tôi luyện phát âm tiếng Nhật” (M = 4.397; SD = 0.8271), Q50 “Tôi cố gắng tìm hiểu văn hoá Nhật Bản” (M = 4.333; SD = 0.8629). Bốn chiến lược có tần suất sử dụng thấp nhất (M < 2.5) của sinh viên SFL tiếng Nhật lần lượt là Q43 “Tôi ghi lại những cảm nhận học tiếng Nhật của mình trong nhật kí” (M = 1.949; SD = 1.1384), Q26 “Tôi tự tạo ra từ mới nếu tôi không biết từ cần sử dụng đó trong tiếng Nhật” (M = 2.077; SD = 1.1927), Q17 “Tôi viết ghi chú, tin nhắn, thư từ hoặc báo cáo bằng tiếng Nhật” (M = 2.192; SD = 1.0697), Q27 “Khi đọc đoạn văn tiếng Nhật, tôi không tra nghĩa của từng từ mới” (M = 2.462; SD = 1.2963). Điều đáng lưu ý là các chiến lược có tần suất sử dụng thấp đều có độ lệch chuẩn khá cao. Qua đó cho thấy, có sự khác biệt tương đối lớn trong sử dụng chiến lược của sinh viên SFL tiếng Nhật. 4.2. Sự khác biệt về giới tính trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật Trong số 78 sinh viên tham gia điều tra, có 8 sinh viên nam (chiếm tỉ lệ 10.3%) và 70 sinh viên nữ (chiếm tỉ lệ 89.7%). Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên nam và sinh viên nữ như sau (xem bảng 3): 52 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Bảng 3. Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên nam và sinh viên nữ Nhóm chiến lược Giới tính Mean SD t p Nhóm chiến lược ghi nhớ Nam 3.5000 0.77209 -0.225 0.822 Nữ 3.5524 0.60592 Nhóm chiến lược nhận thức Nam 3.5536 0.51472 -0.232 0.817 Nữ 3.6041 0.59023 Nhóm chiến lược bù đắp Nam 3.3542 0.59387 0.427 0.671 Nữ 3.2452 0.69257 Nhóm chiến lược siêu nhận thức Nam 3.8611 0.79405 0.075 0.941 Nữ 3.8413 0.70236 Nhóm chiến lược xúc cảm Nam 3.6458 0.55946 1.334 0.186 Nữ 3.3143 0.67599 Nhóm chiến lược xã hội Nam 3.5208 0.53776 -0.565 0.573 Nữ 3.6690 0.71700 Bảng 3 cho thấy, sinh viên nam có tần suất sử dụng nhóm chiến lược ghi nhớ, nhóm chiến lược nhận thức và nhóm chiến lược xã hội tương đối thấp hơn sinh viên nữ, có tần suất sử dụng nhóm chiến lược bù đắp, nhóm chiến lược siêu nhận thức và nhóm chiến lược xúc cảm tương đối cao hơn sinh viên nữ. Song, sau khi tiến hành kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể – trường hợp mẫu độc lập (Independent samples T-test) ở 6 nhóm chiến lược, chúng tôi phát hiện không có sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0.05) về tần suất sử dụng các nhóm chiến lược giữa sinh viên nam và sinh viên nữ. 4.3. Sự khác biệt về cấp lớp trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật Trong số 78 sinh viên tham gia khảo sát, có 59 sinh viên năm 2 (chiếm tỉ lệ 75.6%), 19 sinh viên năm 3 (chiếm tỉ lệ 24.4%). Chúng tôi chọn sinh viên ở hai cấp lớp này là vì trong chương trình đào tạo ngành Ngôn ngữ Anh của BUH các học phần SFL tiếng Nhật chỉ được phân bổ vào năm thứ hai và năm thứ ba. Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên năm 2 và sinh viên năm 3 như sau (xem bảng 4): Bảng 4. Tình hình sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật của sinh viên năm 2 và năm 3 Nhóm chiến lược Cấp lớp Mean SD t p Nhóm chiến lược ghi nhớ Năm 2 3.5593 0.66921 0.308 0.759 Năm 3 3.5088 0.44184 Nhóm chiến lược nhận thức Năm 2 3.6186 0.57444 0.527 0.600 Năm 3 3.5376 0.60906 Nhóm chiến lược bù đắp Năm 2 3.1780 0.63943 1.821 0.073 Năm 3 3.5000 0.76174 Nhóm chiến lược siêu nhận thức Năm 2 3.9266 0.70593 1.862 0.066 Năm 3 3.5848 0.66134 Nhóm chiến lược xúc cảm Năm 2 3.4040 0.63894 1.300 0.198 Năm 3 3.1754 0.74840 Nhóm chiến lược xã hội Năm 2 3.6921 0.64906 0.850 0.398 Năm 3 3.5351 0.84543 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 53 Bảng 4 cho thấy, sinh viên năm 2 có tần suất sử dụng nhóm chiến lược ghi nhớ, nhóm chiến lược nhận thức, nhóm chiến lược siêu nhận thức, nhóm chiến lược xúc cảm, nhóm chiến lược xã hội cao hơn sinh viên năm 3, có tần suất sử dụng nhóm chiến lược bù đắp thấp hơn sinh viên năm 3. Song, sau khi tiến hành kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể – trường hợp mẫu độc lập (Independent samples T-test) ở 6 nhóm chiến lược, chúng tôi phát hiện không có sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0.05) về tần suất sử dụng các nhóm chiến lược giữa sinh viên năm 2 và sinh viên năm 3. 5. Thảo luận Sau khi phân tích số liệu khảo sát chúng tôi phát hiện, sinh viên SFL tiếng Nhật đã nắm được chiến lược học tiếng Nhật ở một mức độ nhất định. Sinh viên có tần suất sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật khá cao. Nhóm chiến lược mà sinh viên SFL tiếng Nhật sử dụng nhiều nhất là nhóm chiến lược siêu nhận thức. Điều này có thể hiểu được, vì sinh viên là những người đã trưởng thành, đại đa số đều có mục đích cụ thể, rõ ràng khi chọn học SFL, đồng thời có năng lực tự giám sát, tự quản lí và tự đánh giá tương đối cao, có khả năng tập trung sự chú ý trong các hoạt động học tập. Nhóm chiến lược siêu nhận thức có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả học tập ngoại ngữ, nếu sinh viên có tần suất sử dụng cao sẽ đạt được nhiều thành công trong việc học ngoại ngữ (Wang, Spencer & Xing, 2009). Song, các kết quả nghiên cứu trước đây lại cho thấy, sinh viên không nhận thấy được tầm quan trọng của nhóm chiến lược siêu nhận thức, tần suất sử dụng nhóm chiến lược này luôn thấp hơn nhóm chiến lược nhận thức. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả không giống với các nghiên cứu trước đây, sinh viên SFL tiếng Nhật có tần suất sử dụng nhóm chiến lược siêu nhận thức cao hơn nhóm chiến lược nhận thức. Sự đối lập này có thể là vì sinh viên SFL tiếng Nhật đã có kinh nghiệm học ngoại ngữ thứ nhất – tiếng Anh, điều này giúp sinh viên có thể quản lí việc học tốt hơn, có khả năng điều tiết quá trình học SFL. Sinh viên SFL tiếng Nhật ít sử dụng nhóm chiến lược xúc cảm. Kết quả này giống với kết quả nghiên cứu của Chamot, O’ Malley, Kupper & Impink-Hernandez (1987). Điều này rất đáng lo ngại, bởi vì các nhân tố xúc cảm có ảnh hưởng rất lớn đến việc học ngoại ngữ của sinh viên. Những sinh viên học ngoại ngữ thành công là những sinh viên biết cách điều khiển các xúc cảm và thái độ của chính mình. Những xúc cảm tiêu cực sẽ gây trở ngại cho sự tiến bộ trong việc học ngoại ngữ, ngược lại những xúc cảm tích cực sẽ tạo sự vui vẻ, hiệu quả trong học tập. Thực tế cho thấy, rất nhiều sinh viên chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố xúc cảm như lo lắng quá độ, mất tự tin Vì vậy, trong giảng dạy SFL tiếng Nhật, giảng viên cần hướng dẫn sinh viên cách điều tiết và điều khiển cảm xúc của mình bằng nhóm chiến lược xúc cảm. Nhóm chiến lược mà sinh viên SFL tiếng Nhật ít sử dụng nhất là nhóm chiến lược bù đắp. Kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của God & Kwah (1997), sinh viên sử dụng nhiều nhất là nhóm chiến lược bù đắp. Nhóm chiến lược bù đắp có thể giúp sinh viên vượt qua những hạn chế về kiến thức và đạt được mục đích giao tiếp. Song, sinh viên SFL tiếng Nhật lại sử dụng nhóm chiến lược này với tần suất sử dụng thấp nhất trong 6 nhóm chiến lược. Điều này có thể là vì ưu thế của việc sử dụng tiếng Anh – ngoại ngữ thứ nhất của sinh viên trong giao tiếp. Mặt khác, cũng có thể vì lượng kiến thức tiếng Nhật của sinh viên SFL tham gia khảo sát còn ở mức thấp, chưa đủ để đoán nghĩa của từ, dùng từ hoặc cụm từ khác thay thế, sinh viên không thể không cần sự trợ giúp của các sách công cụ hay các ứng dụng từ điển tiếng Nhật. 54 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Không có sự khác biệt về giới tính trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật. Việc lựa chọn và sử dụng chiến lược giữa sinh viên nam và sinh viên nữ có sự giống nhau, không có sự khác biệt có ý nghĩa. Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của Oxford & Nyikos (1989), song lại giống với kết quả nghiên cứu của Young & Oxford (1997). Trong mối quan hệ giữa giới tính và chiến lược học ngoại ngữ có thể tồn tại những nhân tố trung gian, giữa chúng không chỉ đơn giản là mối quan hệ tuyến tính. (Liyanage & Bartlett,2012) Không có sự khác biệt về cấp lớp trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật. Các nghiên cứu trước đây cho thấy, việc sử dụng chiến lược của sinh viên sẽ thay đổi cùng với sự phát triển về trình độ ngoại ngữ của sinh viên (Macaro, 2006), sinh viên ở giai đoạn trung cấp sẽ có tần suất sử dụng chiến lược cao hơn sinh viên ở giai đoạn sơ cấp (Hong – Nam & Leavell, 2006). Sinh viên năm 2 và năm 3 tuy thuộc hai cấp lớp khác nhau, nhưng đều cùng giai đoạn tiếng Nhật sơ cấp. Vì vậy, việc lựa chọn và sử dụng chiến lược giữa sinh viên ở hai cấp lớp này có sự giống nhau, không có sự khác biệt có ý nghĩa. 6. Kết luận Sinh viên SFL tiếng Nhật ngành Ngôn ngữ Anh BUH có tần suất sử dụng chiến lược tương đối cao. Trong 6 nhóm chiến lược, nhóm chiến lược siêu nhận thức có tần suất sử dụng cao nhất, kế đến là nhóm chiến lược xã hội, nhóm chiến lược nhận thức và nhóm chiến lược ghi nhớ, cuối cùng là nhóm chiến lược xúc cảm và nhóm chiến lược bù đắp. Giữa sinh viên nam và sinh viên nữ không có sự khác biệt có ý nghĩa trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật. Giữa sinh viên năm 2 và sinh viên năm 3 cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa trong việc sử dụng chiến lược học SFL tiếng Nhật. Kết quả nghiên cứu của bài viết này có giá trị tham khảo trong giáo dục và đào tạo SFL tiếng Nhật bậc đại học. Giảng viên có thể căn cứ vào tình hình của sinh viên, hướng dẫn sinh viên lựa chọn, vận dụng các chiến lược học tập phù hợp, từ đó giúp sinh viên nâng cao hiệu quả học tập, nâng cao trình độ SFL tiếng Nhật. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo SFL tiếng Nhật. Nghiên cứu này hiện vẫn còn tồn tại một số hạn chế, như khách thể nghiên cứu chỉ là sinh viên của BUH, chỉ sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Vì vậy, trong các nghiên cứu tiếp theo nếu có thể mở rộng phạm vi khách thể nghiên cứu sang các vùng, miền khác, đồng thời kết hợp sử dụng thêm các phương pháp phỏng vấn, quan sát... sẽ mang lại độ tin cậy và độ chính xác cao hơn. Tài liệu tham khảo: 1. Chamot, A. U., O' Malley, J. M., Kupper, L.& Impink- Hernandez, M. V. (1987), A study of learning strategies in foreign language instruction: First year report, InterAmerica Research Association, Washington DC. 2. Ellis, R. (1994), The Study of Second Language Acquisition, Oxford University Press, Oxford. 3. Goh, C. & Kwah, P. E. (1997), “Chinese ESL students’ learning strategies: A look at frequency, proficiency and gender”, Hong Kong Journal of Applied Linguistics, 2 (1). 4. Hong-Nam, K. & Leavell, A. G. (2006), “Language learning strategy use of ESL students in an intensive English learning context”, System, 34 (3). 5. Liyanage, I. & Bartlett, B. J. (2012), “Gender and language learning strategies: looking beyond the categories”, The Language Learning Journal, 40 (2). 6. Macaro, E. (2006), “Strategies for language learning and for language use: Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 55 Revising the theoretical framework”, Modern Language Journal, 90 (3) . 7. McDounough, S. H. (1999), “Learner strategies”, Language Teaching, 32 (1). 8. Oxford, R. L. (1999), “Learning strategies”, in Spolsky, B. (eds.), Concise Encyclopedia of Educational Linguistics, Elsevier, Oxford. 9. Oxford, R. L. (1990), Language Learning Strategies: What Every Teacher Should Know, Heinle and Heinle, New York. 10. Oxford, R. L.& Nyikos, M. (1989), “Variable affecting choice oflanguage learning strategies by university students”, Modern Language Journal, 73(2). 11. Wang, J. H., Spencer, K. & Xing, M. J. (2009), “Metacognitive beliefs and strategies in learning Chinese as a foreign language”, System, 37 (1) . 12. Young, D. J. & Oxford, R. L. (1997), “A gender-related analysis of strategies used to process written input in the native language and a foreign language”, Applied Language Learning, 8 (1) . Địa chỉ tác giả: 251 Phan Thanh Giản, Phường 2, TP. Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang. Email: luuhonvu@gmail.com
File đính kèm:
- chien_luoc_hoc_ngoai_ngu_thu_hai_tieng_nhat_cua_sinh_vien_ng.pdf