Chế tạo và khảo sát độ bền nhiệt của pin mặt trời chất màu nhạy quang
Pin mặt trời chất màu nhạy quang (DSSC) được chế tạo theo quy trình lắp ráp riêng phù hợp với điều kiện phòng
thí nghiệm ở Việt Nam. Pin đạt hiệu suất chuyển đổi năng lượng 8%, dòng ngắn mạch 17,5 mA/cm2, thế mạch hở
0,752 V và hệ số lấp đầy 0,62, tương đương với các nghiên cứu trên thế giới. Độ bền của pin được khảo sát trong
điều kiện thử nghiệm gia tốc ở 85oC trong 1.000 giờ, cho thấy tính năng của pin suy giảm đáng kể, hiệu suất giảm
còn 0,83%, dòng ngắn mạch 2,5 mA/cm2, thế mạch hở 0,621 V và hệ số lấp đầy 0,535. Phương pháp phổ tổng trở
điện hóa (EIS) được áp dụng để xác định nguyên nhân suy giảm tính năng của pin trong quá trình phơi nhiệt trên
cơ sở phân tích các mô hình mạch tương ứng với dữ liệu tổng trở. Kết quả cho thấy điện cực quang anod bị suy
giảm tính năng thể hiện qua sự tăng tổng trở trên giao diện TiO2/dung dịch điện ly sau 120 giờ phơi nhiệt. Sau 240
giờ phơi nhiệt sự giảm cấp của chất điện ly bắt đầu xảy ra, thể hiện qua sự tăng điện trở khuếch tán. Sự giảm cấp
của dung dịch điện ly còn được chứng minh qua sự phục hồi tính năng của pin khi thay mới dung dịch điện ly vào
pin sau 1.000 giờ phơi nhiệt.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chế tạo và khảo sát độ bền nhiệt của pin mặt trời chất màu nhạy quang
n tử trên màng TiO2 thể hiện bởi bán cung ở vùng tần số trung bình. Thời gian sống của điện tử trên màng TiO2 chính là hằng số thời gian được xác định theo biểu thứ : e= RtC = 1/ = 1/2 fmax (1.1) Trong đó Rt là điện trở chuyển điện tích trên màng TiO2, C là điện dung màng TiO2, là tần số góc tương ứng với tần số tại điểm cực đại (fmax) trên phổ tổng trở Nyquist. 2) Quá trình tái hợp nhanh, mạch vật lý Gerischer (G) mô phỏng cho phản ứng tái hợp điện tử và I3 - đi kèm phản ứng hóa học (quá trình tái sinh chất màu nhạy quang bởi I-). Tổng trở G (ZG) được biểu diễn bởi biểu thức 1.2, thể hiện bởi bán cung ở vùng tần số trung bình với phần đầu thẳng, phần cuối tròn như mô tả trong hình 3 trên giản đồ Nyquist [12]. ( ) √ (1.2) Trong đó k là hằng số tốc độ phản ứng tái sinh chất màu nhạy quang, Yo là độ dẫn nạp của quá trình tái hợp điện tử, j là số phức. Hình 3. Đặc trưng của tổng trở Gerischer trên giản đồ Nyquist. Quá trình khuếch tán giới hạn của dung dịch điện ly trong ngăn trống của pin, tổng trở được mô tả bởi thành phần O, xác định bởi biểu thức (1.3) [12, 13]. √ ( √ ) (1.3) Trong đó B đặc trưng cho tốc độ khuếch tán liên hệ với hệ số khuếch tán qua biểu thức . Khi √ tổng trở khuếch tán tương đương với thành phần (RdCd) thể hiện bởi bán cung ở tần số thấp trên phổ Nyquist. Hệ số khuếch tán (D) của dung dịch điện ly xác được định bởi biểu thức (1.4) [14-17]. (1.4) Z’ () Z’’ () (1.4) Trong đó l là độ dày lớp khuếch tán, tương đương với khoảng cách giữa anod và catod (khoảng 60 mm = độ dày lớp surlyn), R d , C d lần lượt là điện trở và điện dung khuếch tán. Tổng trở điện hóa của pin DSSC_TM 1 (hình 2) được mô phỏng bằng mạch tương đương [R s (R pt Q pt )(R t Q μ )(R d Q d )]. Trong đó Q pt , Qµ, Q d là các hằng số pha không đổi thay thế cho các đại lượng điện dung C pt , Cµ, C d trong trường không lý tưởng [15]. Các thông số điện hóa được xử lý bằng phần mềm NOVA 1.11 cho giá trị như trong bảng 2. Bảng 2. Thông số tổng trở điện hóa của DSC_TM1 đo tại Voc, chiếu sáng 100 mW/cm2. Pin Giao diện Pt/dung dịch điện ly Giao diện TiO2/ dung dịch điện ly Khuếch tán chất điện ly R pt (Ω) Q pt (μS) τe (ms) R t (Ω) Qµ (µS) Rd (Ω) Qd (mS) D x 105 (cm2/s) DSC_TM1 9,54 13,9 7,98 13,6 972 7,12 53,0 4,59 DSC_TM2 9,23 15,0 7,98 13,8 948 7,57 57,5 4,81 DSC_TM3 9,67 12,8 7,98 13,3 988 6,74 52,1 4,43 Khảo sát độ bền nhiệt của pin DSSC Pin DSSC được phơi nhiệt ở 85°C trong 1.000 giờ liên tục. Tại những thời điểm 0, 120, 240, 410, 580, 740 và 1.000 giờ phơi nhiệt, pin DSSC được đánh giá tính năng và đo tổng trở điện hóa. Thông số tính năng của pin ở hình 4, bảng 3 cho thấy các pin DSSC có hiệu suất chuyển đổi năng lượng (ƞ) trung bình là 8% khi chưa phơi nhiệt. Tuy nhiên sau 120 giờ phơi nhiệt đầu tiên, hiệu suất pin giảm nhanh xuống còn 4% và giảm chậm dần theo thời gian ủ nhiệt. Hình 4 cho thấy sự giảm hiệu suất đồng biến với sự suy giảm mật độ dòng ngắn mạch (I sc ) chứng tỏ nguyên nhân của sự giảm tính năng của pin là do sự giảm dòng quang điện. Trong khi đó, thế mạch hở (V oc ), hệ số lấp đầy (FF) giảm nhẹ (khoảng 10%) sau 1.000 giờ phơi nhiệt. Kết quả trên cho thấy nguyên nhân suy giảm tính năng của pin chủ yếu là do sự giảm cấp của điện cực quang anod (có thể là do sự giảm cấp của chất màu nhạy quang dưới tác động của nhiệt độ [18, 19]) và một phần do sự phân hủy của chất điện ly. Sự â hủy của chất điện ly được kiểm chứng bằng 4662(3) 3.2020 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ cách thay chất điện ly mới vào pin đã suy giảm tính năng sau 1.000 giờ phơi mẫu. Kết quả cho thấy hiệu suất của pin phục hồi từ 0,8% lên 2,7% (hình 4, bảng 3). Các thông số tính năng của pin đều được phục hồi, trong đó mật độ dòng quang điện J sc phục hồi 34% từ 2,5 lên 5,9 mA/cm2, thế mạch hở 10% và hệ số lấp đầy phục hồi 100%. Nguyên nhân suy giảm tính năng của pin được phân tích sâu hơn trên cơ sở phân tích dữ liệu tổng trở điện hóa. Bảng 3. Thông số tính năng trung bình của các pin DSSC thay đổi theo thời gian ủ nhiệt ở 85°C, trong 1.000 giờ và sự phục hồi tính năng của pin sau khi thay chất điện ly. Thời gian ủ nhiệt (giờ) ƞ (%) Voc (V) Jsc (mA/cm2) FF 0 8,1 0,76 17,4 0,61 120 4,1 0,71 9,0 0,65 240 3,3 0,68 7,6 0,64 410 2,6 0,66 6,2 0,64 580 1,9 0,66 4,7 0,62 740 1,4 0,65 3,7 0,59 1.000 0,8 0,62 2,5 0,54 Thay chất điện ly mới 2,7 0,68 5,9 0,68 Hình 5 biểu diễn phổ tổng trở Nyquist của pin DSC_ TM1 trước và sau 120 giờ phơi nhiệt ở 85oC được đo tại thế mạch hở, cường độ sáng 100 mW/cm2. Trên phổ đồ nhận thấy bán cung thứ hai (vùng tần số trung bình, đặc trưng cho quá trình điện hóa trên giao diện TiO 2 /dung dịch điện ly) thay đổi hình dạng và tăng độ lớn sau 120 giờ phơi nhiệt. Trong khi đó tổng trở trên giao diện catod/dung dịch điện ly và tổng trở khuếch tán của dung dịch điện ly không thay đổi nhiều. Chứng tỏ sự suy giảm tính năng của pin DSSC sau 120 giờ phơi nhiệt liên quan đến quá trình giảm cấp trên điện cực quang anod. Hình 5 cho thấy tổng trở ở vùng tần số trung bình trên phổ Nyquist của pin DSSC sau 120 giờ phơi nhiệt đặc trưng cho tổng trở Gerischer, tương ứng với trường hợp quá trình tái hợp xảy ra đáng kể trong pin. Phổ tổng trở Nyquist của pin DSC_TM1 theo thời gian ủ nhiệt được biểu diễn trên hình 6 cho thấy, trong khoảng thời gian dưới 400 giờ phơi nhiệt, tổng trở thay đổi (tăng) chủ yếu ở vùng tần số trung bình, tương ứng với quá trình điện hóa trên điện cực quang anod, trong khi tổng trở khuếch tán dung dịch điện ly không thay đổi nhiều. Phổ Bode góc pha cho thấy, giá trị đỉnh tần số trung bình tăng rõ rệt, chứng tỏ thời gian sống của điện tử trên màng TiO 2 giảm đi nhiều. Sự giảm thời gian sống của điện tử là do các điện tử trên TiO 2 bị tái hợp bởi chất điện ly. Trong khi đó, đỉnh tần số thấp đặc trưng cho quá trình khuếch tán chất điện ly thay đổi không đáng kể, chứng tỏ sự suy giảm tính năng của pin trong giai đoạn này ít liên quan đến dung dịch điện ly. Như vậy, sự phơi nhiệt pin DSC ở nhiệt độ 85°C tác động rõ ràng đến điện cực quang anod TiO 2 theo khuynh hướng tăng khả năng tái kết hợp giữa điện tử và I 3 - (biểu hiện bởi sự tăng độ dẫn nạp của quá trình tái hợp), giảm khả năng tái sinh chất màu nhạy quang (giảm hằng số tốc độ phản ứng tái sinh chất màu nhạy quang), kết quả dẫn tới làm giảm dòng quang điện (J sc ), giảm hiệu suất chuyển đổi năng lượng của pin theo thời gian ủ nhiệt. Hình 5. Phổ tổng trở của pin DSC_TM1 tại t=0 giờ và t=120 giờ ủ nhiệt tại 85°C. Khi thời gian phơi mẫu kéo dài hơn 400 giờ, sự giảm cấp trên catod thể hiện rõ rệt qua sự tăng điện trở chuyển điện tích R Pt (hình 6, bảng 5). Hoạt động của một pin DSSC là chuỗi của nhiều quá trình xảy ra liên tục, một khi điện tử bị tái kết hợp mạnh do sự phân hủy nhiệt, điện tử chuyển sang bán dẫn TiO 2 bị hạn chế, ảnh hưởng đến các quá trình tiếp theo như giảm phản ứng chuyển điện tích trên catod (R pt tăng). Ngoài ra, sự phân hủy nhiệt của các chất màu nhạy quang đã làm giảm tốc độ tái sinh của chúng (k giảm), tác động làm giảm dòng quang điện và giảm hiệu suất của pin DSSC. Hình 4. Thông số tính năng của các pin DSSC thay đổi theo thời gian phơi nhiệt ở 85°C liên tiếp trong 1.000 giờ và sự phục hồi tính năng của pin sau khi thay chất điện ly. 9 tương ứng với trường hợp quá trình tái hợp xảy ra đáng kể trong pin. Phổ tổng trở Nyquist của pin DSC_TM1 theo thời gian ủ nhiệt được biểu diễn trên hình 6 cho thấy, trong khoảng thời gian dưới 400 giờ phơi nhiệt, tổng trở thay đổi (tăng) chủ yếu ở vùng tần số trung bình, tương ứng với quá trình điệ hóa trên điện cực quang anod, trong khi tổng trở khuếch tán dung dịch điện ly không thay đổi nhiều. Phổ Bode góc pha cho thấy, giá trị đỉnh tần số trung bình tăng rõ rệt, chứng tỏ thời gian sống của điện tử trên màng TiO2 giảm đi nhiều. Sự giảm thời gian sống của điện tử là do các điện tử trên TiO2 bị tái hợp bởi chất điện ly. Trong khi đó, đỉnh tần số thấp đặc trư g cho quá trình khuếch tán chất điện ly thay đổi không đáng kể, chứng tỏ sự suy giảm tính năng của pin trong giai đoạn này ít liên quan đến dung dịch điện ly. Như vậy, sự phơi nhiệt pin DSC ở nhiệt độ 85°C tác động rõ ràng đến điện cực quang anod TiO2 theo khuynh hướng tăng khả năng tái kết hợp giữa điện tử và I3 - (biểu hiện bởi sự tăng độ dẫn nạp của quá trình tái hợp), giảm khả năng tái sinh chất màu nhạy quang (giảm hằng số tốc độ phản ứ tái sinh chất màu nhạy quang), kết quả dẫn tới làm giảm dòng quang điện (Jsc), giảm hiệu suất chuyển đổi năng lượng của pin theo thời gian ủ nhiệt. Hình 5. Phổ tổng trở của pin DSC_TM tại t=0 giờ và t=120 giờ ủ nhiệt tại 85°C. Khi thời gian phơi mẫu kéo dài hơn 400 giờ, sự giảm cấp trên catod thể hiện rõ rệt qua sự tăng điện trở chuyển điện tích RPt (hình 6, bảng 5). Hoạt động của một pin DSSC là chuỗi của nhiều quá trình xảy ra liên tục, một khi điện tử bị tái kết hợp mạnh do sự phân hủy nhiệt, điện tử chuyển sang bán dẫn TiO2 bị hạn chế, ảnh hưởng đến các quá trình tiếp theo như giảm phản ứng chuyển điện tích trên catod (Rpt tăng). Ngoài ra, sự phân hủy nhiệt của các chất màu nhạy quang đã làm giảm tốc độ tái sinh của chú g (k iảm), tác động làm giảm dòng quang điện và giảm hiệu suất của pin DSSC. -10 -5 0 5 10 15 20 25 30 15 25 35 45 55 -Z '' (Ω ) Z' (Ω) 0 giờ 120 giờ 50 Hz 4762(3) 3.2020 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ Hình 6. Phổ Nyquist và Bode góc pha của DSC_TM1 thay đổi theo thời gian phơi mẫu ở 85oC. Bảng 4. Sự thay đổi thông số mạch điện theo thời gian ủ nhiệt ở 85°C của pin DSC_TM1. Thời gian (giờ) Giao diện Pt/ dung dịch điện ly Giao diện TiO2/ dung dịch điện ly Khuếch tán chất điện ly R ct (Ω) Y0 (mS) Y0 (mS) k (s-1) Y0 (mS) B(s1/2)x102 120 7,25 16,7 93,1 1,23 5,63 9,46 240 9,95 48,5 98,9 1,19 4,57 8,37 410 16,2 277 117 1,08 3,25 7,29 580 22,3 105 118 0,79 2,21 7,15 740 27,4 114 136 0,57 1,95 6,63 1.000 41,7 19,5 168 0,21 1,18 5,79 Kết luận Pin DSSC được chế tạo theo quy trình mới của phòng thí nghiệm đạt hiệu suất chuyển hóa năng lượng cao (8%). Hiệu suất chuyển đổi năng lượng của pin bị suy giảm nhanh (khoảng 50%) sau 120 giờ phơi nhiệt ở 85oC trong tối, và giảm còn 0,8% sau 1.000 giờ phơi nhiệt. Phân tích tổng trở điện hóa của pin DSSC cho thấy, sự suy giảm nhanh tính năng của pin DSSC theo thời gian phơi nhiệt ở 85oC do sự phân hủy của điện cực quang anod xảy ra trước. Sau đó mới xảy ra sự phân hủy của dung dịch điện ly và điện cực catod. Phương pháp tổng trở điện hóa sử dụng khá hiệu quả trong việc phân tích, đánh giá độ bền nhiệt của pin DSSC. Các thông số động học như thời gian sống của điện tử, tốc độ phản ứng tái hợp, hệ số khuếch tán của dung dịch điện ly được xác định chi tiết. Ngoài ra, phương pháp tổng trở điện hóa là phương pháp đo không phá hủy mẫu nên cũng có thể được áp dụng để xác định độ bền hoạt động thực tế của pin dưới điều kiện chiếu sáng, chịu tải. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu này được hỗ trợ kinh phí từ Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh qua đề tài mã số HS2015-18-01. Các tác giả xin trân trọng cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] I. Dincer, C. Acar (2015), “A review on clean energy solutions for better sustainability”, International Journal of Energy Research, 39, pp.585-606. [2] B. O’Regan, M. Grätzel (1991), “A low-cost, high-efficiency solar cell based on dye-sensitized colloidal TiO 2 films”, Nature, 353, pp.737-740. [3] M. Gratzel (2001), “Photoelectrochemical cells”, Nature, 414, pp.338- 344. [4] M. Gratzel (2005), “Solar energy conversion by dye-sensitized photovoltaic cell”, Inorganic Chemistry, 44, pp.6841-6851. [5] M. Grätzel (2003), “Dye-sensitized solar cells”, Journal of Photochemistry and Photobiology C: Photochemistry Reviews, 4, pp.145-153. [6] A. Hagfeldt, G. Boschloo, L. Sun, L. Kloo, H. Pettersson (2010), “Dye - sensitized solar cell”, Chemical Reviews, 110(11), pp.6595-6663. [7] J. Gong, J. Liang, K. Sumathy (2012), “Review on dye-sensitized solar cells (DSSCs): Fundamental concepts and novel materials”, Renewable and Sustainable Energy Reviews, 16, pp.5848-5860. [8] Haider Iftikhar, Gabriela Gava Sonai, Syed Ghufran Hashmi, Ana Flávia Nogueira and Peter David Lund (2019), “Progress on electrolytes development in dye-sensitized solar cells”, Materials, 12(12), p.1998. [9] D. Bari, N. Wrachien, R. Tagliaferro, S. Penna, T.M. Brown, A. Reale, A. Di Carlo, G. Meneghesso, A. Cester (2011), “Thermal stress effects on Dye- Sensitized Solar Cells (DSSCs)”, Microelectronics Reliability, 51, pp.1762-1766. [10] A.G. Kontos, T. Stergiopoulos, V. Likodimos, D. Milliken, H. Desilvesto, G. Tulloch, P. Falaras (2013), “Long-term thermal stability of liquid dye solar cells”, J. Phys. Chem. C., 117, pp.8636-8646. [11] S.K. Yadav, S. Ravishankar, S. Pescetelli, A. Agresti, F. Fabregat- Santiago, A. Di Carlo (2017), “Stability of dye-sensitized solar cells under extended thermal stress”, Phys. Chem. Chem. Phys., 19(33), pp.22546-22554. [12] Q. Wang, J.-E. Moser, M. Grätzel (2005), “Electrochemical impedance spectroscopic analysis of dye-sensitized solar cells”, J. Phys. Chem. B., 109, pp.14945-14953. [13] S. Sarker, H.W. Seo, and D.M. Kim (2013), “Electrochemical impedance spectroscopy of dye-sensitized solar cells with thermally degraded N719 loaded TiO2”, Chemical Physics Letters, 585, pp.193-197. [14] Ross Macdonald and William B. Johnson (2005), Fundamentals of Impedance Spectroscopy, pp.83-86. [15] T.H. Nguyen, H.M. Tran, T.P.T. Nguyen (2013), “Application of electrochemical impedance spectroscopy in characterization of mass- and charge transfer processes in dye-sensitized solar cells”, ECS Trans., 50, pp.49-58. [16] J. Bisquert, L. Bertoluzzi, I. Mora-Sero, and G. Garcia-Belmonte (2014), “Theory of impedance and capacitance spectroscopy of solar cells with dielectric relaxation, drift-diffusion transport, and recombination”, The Journal of Physical Chemistry C, 118(33), pp.18983-18991. [17] Subrata Sarker, A.J. Saleh Ahammad, Hyun Woo Seo, and Dong Min Kim (2014), “Electrochemical impedance spectra of dye-sensitized solar cells: fundamentals and spreadsheet calculation”, International Journal of Photoenergy, Article ID 851705, 17 pages. [18] Hoang Thai Nguyen, Ha Minh Ta, Torben Lund (2007), “Thermal thiocyanate ligand substitution kinetics of the solar cell dye N719 by acetonitrile, 3-methoxypropionitrile, and 4-tert-butylpyridine”, Solar Energy Materials & Solar Cells, 91, pp.1934-1942. [19] G. Xue, Y. Guo, T. Yu, J. Guan, X. Yu, J. Zhang, J. Liu, Z. Zou (2012), “Degradation mechanisms investigation for long-term thermal stability of dye- sensitized solar cells”, Int. J. Electrochem. Sci., 7, pp.1496-1511.
File đính kèm:
- che_tao_va_khao_sat_do_ben_nhiet_cua_pin_mat_troi_chat_mau_n.pdf