Cách thể hiện phép lịch sự bằng phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong các bài thuyết trình tiếng anh của sinh viên trường đại học ngoại ngữ - Đại học Huế
Bài báo đề cập khái niệm lịch sự (politeness) thể hiện qua hành
động giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Lịch sự là một quan niệm có
tính văn hóa nên cách thức thể hiện nó trong ngôn ngữ cũng khác nhau trong
những hoàn cảnh địa lý, xã hội khác nhau. Trong khi người Anh-Mỹ quan
niệm một hành động hoặc một câu nói nào đó là lịch sự thì đối với người
châu Á, có thể xuất hiện quan niệm hoàn toàn ngược lại. Dựa trên những lý
thuyết về quan niệm lịch sự, tác giả đã khảo sát các bài thuyết trình của sinh
viên tiếng Anh - trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Huế để tìm ra những
cách thể hiện phép lịch sự của sinh viên khi thuyết trình cũng như đối chiếu
chúng với cách mà người Anh - Mỹ thường hay thể hiện trong những hoàn
cảnh tương tự. Những kết quả này có thể là tài liệu tham khảo cho những
sinh viên tiếng Anh trong việc hướng đến các bài thuyết trình tiếng Anh vừa
đạt được những chuẩn mực ngôn ngữ và những yêu cầu văn phong, vừa thể
hiện đặc tính văn hóa của những nước nói tiếng Anh.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách thể hiện phép lịch sự bằng phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong các bài thuyết trình tiếng anh của sinh viên trường đại học ngoại ngữ - Đại học Huế
ình Giai Tiếng Anh Dịch nghĩa Tần số Biện pháp đoạn sử dụng Giới The first issue Vần đề đầu tiên là... 15% Những biện thiệu ý I’d like to start by Tôi xin được bắt đầu bằng 43% pháp thể đầu tiên Let’s begin by Xin được bắt đầu bằng 10% hiện phép First of all, I’ll Đầu tiên, 12% lịch sự chính I’ll begin by... Tôi xin được bắt đầu bằng 8% là: Kết thúc Well, I’ve told you about Vừa rồi tôi đã trình bày 28% - cảnh báo ý 1 That’s all I have to say Đó là những gì tôi muốn nói 27% trước tình I’ve just finished Tôi vừa mới trình bày xong 21% huống bằng I’ll summarise the first Tôi xin tóm tắt những điểm chính 11% ngôn ngữ points đầu tiên dùng để giới Giới Now, we move on to Bây giờ, chúng ta sẽ nói sang 12% thiệu và để tóm tắt thiệu ý Let me now turn to Cho phép tôi chuyển sang 9% - đi trực tiếp thứ 2 Next/ secondly Tiếp theo, thứ 2 là 45% vào vấn đề The second point is Ý thứ 2 là 34% - ngôn ngữ Chuyển I’d like now to discuss Tôi muốn chuyển sang thảo luận 14% rào đón sang một một vấn đề khác - Từ ngữ ý mới Another point to make is... Thêm một ý nữa là 10% trang trọng khác Let’s now look at Bây giờ chúng ta hãy cùng bàn về 13% Turning to Chuyển sang 6% Phân tích Let’s consider this in more Hãy cùng xem xét vấn đề này kỹ 17% một ý details hơn Cho ví For example, to take an Để minh họa, xin lấy một ví dụ 68% dụ minh example, for instance họa Let’s have a look at the Xin mời quý vị nhìn vào những 56% pictures, posters, bức tranh, tài liệu sau đây handouts CÁCH THỂ HIỆN PHÉP LỊCH SỰ BẰNG PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP NGÔN NGỮ... 149 Trên đây là những cách dùng ngôn ngữ trang trọng để giới thiệu các phần chính cũng như minh họa cho bài thuyết trình. Ngoài những yếu tố ngôn ngữ cụ thể, sinh viên còn sử dụng hành động phi ngôn như cúi chào, biểu hiện thái độ lịch sự thông qua biểu cảm trên nét mặt (tươi tỉnh), duy trì ánh mắt nhìn bao quát về khán giả (eye contact); cách dùng tay chỉ trỏ hoặc hỗ trợ bài nói. Những sinh viên thành công trong việc dùng ngôn ngữ bằng lời và phi ngôn để thể hiện sự trang trọng, lịch sự trong bài thuyết trình đều được đánh giá cao, thường được xếp ở mức độ xuất sắc (9-10) hoặc giỏi (8-9) (số này chiếm khoảng 75% đối tượng được nghiên cứu). Những sinh viên không thể hiện được những cách dùng từ, diễn đạt câu và hành động phi ngôn như yêu cầu thường chỉ đạt mức xếp loại khá (20- 25%). Một số ví dụ về biểu hiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của sinh viên chưa đạt được yêu cầu về mức độ trang trọng và lịch sự ở phần nội dung thuyết trình này là: (1) Không dùng hoặc rất hiếm dùng các từ ngữ chuyển tiếp và giới thiệu phần nói tiếp theo trong bài thuyết trình, không tạo cho người nghe cảm giác được báo trước về nội dung cũng như cấu trúc bài nói và để khán giả rơi vào tình trạng căng thẳng vì bất ngờ với những nội dung mới liên tục được thảo luận. Đây là một trong những yếu tố không đạt chuẩn về yêu cầu của bài thuyết trình; (2) Ngôn ngữ sử dụng chưa được chuẩn xác về mặt trang trọng, dùng nhiều từ địa phương, dùng sai từ, cách đặt vấn đề quá đường đột, dễ gây mất lịch sự, gây sự hiểu nhầm hoặc khó được người nghe chấp nhận; (3) Hành động phi ngôn không đảm bảo chuyển tải được tính lịch sự hoặc gây hiểu nhầm trong một vài trường hợp (Ví dụ: khoát tay quá mạnh, liên tục, không trực tiếp nhìn khán giả, dáng người đứng không phù hợp, chỉ tay vô tình vào một khán giả bất kỳ). 4.3. Phần kết luận và tóm tắt các nội dung đã trình bày trong bài thuyết trình Ở giai đoạn này, đa số sinh viên đã không còn bỡ ngỡ và cũng đã vượt qua cảm giác lo lắng, mất tự tin, nên nảy sinh hai hướng diễn đạt trái ngược nhau: (a) Cảm giác quen thuộc, tự tin làm cho sinh viên dễ dàng dùng những lối diễn đạt trang trọng để kết thúc phần nói chuyện của mình; và qua đó thể hiện kiên định những yếu tố lịch sự mà ngay từ đầu bài thuyết trình mình đã sử dụng. Các ví dụ bao gồm: “Ladies and Gentlemen, I have just presented.” (Kính thưa quý vị, tôi vừa trình bày xong), “The main points that I have made in my presentation are” (những điểm chính mà tôi đã đề cập trong bài thuyết trình là), “That brings an end to my presentation today” (Đến đây tôi xin kết thúc bài trình bày của mình) . Sau khi thông báo kết thúc bài thuyết trình, người nói cảm ơn người nghe “Thank you for your attention” (Xin cảm ơn sự chú ý lắng nghe của quý vị), “May I thank you for being such an attentive audience?), “Thank you for joining me today” (Xin cám ơn quý vị đã tham dự ngày hôm nay). Những kiểu diễn đạt như thế ở cuối bài được xem là phù hợp, đạt chuẩn, trang trọng và lịch sự. Bài thuyết trình của sinh viên đến đây xem như đạt được độ hoàn hảo, chuyên nghiệp và thống nhất. Tuy nhiên: (b) Cảm giác gần kết thúc bài và sự tự tin hơi thái quá có thể dẫn đến sự chủ quan và làm gây ra nguy cơ mất thể diện hoặc nói cách khác, phá vỡ phép lịch sự cần có của một số ít sinh viên khác. Có sinh viên nói “That’s all for today” (Tất cả là thế đó/ hôm nay như vậy là đủ, hết rồi đấy”; hoặc “That’s all” (Chỉ có thế thôi!)”. Có sinh viên thậm chí còn không 150 ĐỖ THỊ XUÂN DUNG nói gì khi kết thúc bài, để mặc cho người nghe tự suy đoán! Nguyên nhân khác nữa là do các sinh viên này không có sự chuẩn bị kỹ về mặt ngôn từ và cách diễn đạt cho bài thuyết trình, nên nghĩ rằng giai đoạn kết bài thường không quan trọng và không để ý đến lời phát ngôn của mình; hoặc sinh viên không thể nghĩ ra một phương cách kết thúc bài lịch sự, dẫn đến làm mất đi hiệu quả toàn bài thuyết trình mà mình đã chuẩn bị trước đó. Hành động phi ngôn trong giai đoạn này có thể là sinh viên giữ im lặng, mỉm cười hoặc tiếp tục duy trì ánh mắt nhìn khán giả. Có sinh viên làm một cử chỉ kết thúc bằng tay nhưng vẫn đảm bảo tính trang trọng lịch sự cho bài thuyết trình của mình. Nhiều nhà khoa học (Beebe-1995, Mandel-1987, Payne và cộng sự-1990) đã chứng minh rằng bài thuyết trình là một thể thống nhất, và tuân theo một qui trình. Việc thể hiện thành công một bài thuyết trình nhất thiết phải bao hàm sự chuyên nghiệp, tính trang trọng, lịch sự trong ngôn từ và cách thức diễn đạt, hành động phi ngôn ngữ suốt từ giai đoạn mở bài cho đến khi kết thúc. Đánh giá thành công của buổi thuyết trình từ phía giáo viên và bạn cùng lớp cũng phải căn cứ vào việc sử dụng ngôn ngữ phù hợp ngữ cảnh hay không, cụ thể trong trường hợp này là phép lịch sự. 4.4. Phần bảo vệ bài thuyết trình Mời đặt câu hỏi, trả lời câu hỏi, giải thích lại những khái niệm chưa rõ, định hướng cho những vấn đề mở rộng đề tài, tranh luận về những kết quả nêu trong bài thuyết trình là những yêu cầu bắt buộc đặt ra cho người thuyết trình ngay sau khi kết thúc bài nói. Ở giai đoạn này, vì tâm lý lo lắng không thể bảo vệ những kết quả mà mình đã thuyết trình trước đó, đa số sinh viên bỏ qua hoặc quên sử dụng các phương cách dùng ngôn ngữ để thể hiện phép lịch sự. Một số ít sinh viên (khoảng 25%) tỏ ra bình tĩnh mời mọi người đặt câu hỏi, tích cực phân tích câu hỏi, và trả lời đúng, đủ những yêu cầu trong câu hỏi từ phía người tham dự. Số khác sinh viên (khoảng 40%) rất lúng túng khi nghe câu hỏi và không thể trả lời hoặc trả lời rất sơ sài, tránh né và đặc biệt là vì quá chú trọng đến nội dung câu trả lời nên đã không thể tập trung dùng những diễn đạt ngôn ngữ trang trọng lịch sự như đã được hướng dẫn. Nhiều sinh viên có phản ứng mạnh mẽ với khán giả như đỏ mặt, cười nhếch mép, phủ định câu hỏi hoặc thẳng thắn từ chối không trả lời. Nhiều sinh viên còn đứng ngây người như không nghe được gì và không nói được gì nữa. Sự lúng túng còn thể hiện trong cách dùng từ ngữ thiếu trang trọng như “It’s not what I aimed to talk about” (điều anh hỏi không phải nằm trong mục đích nói chuyện của tôi), “I don’t know. It’s up to you” (tôi không biết, tùy anh hiểu). Tuy nhiên, cách thể hiện này rất hiếm gặp (dưới 10%). Đa số những trường hợp lúng túng đều vội vã trả lời cho qua chuyện hoặc dùng biểu hiện nét mặt và mong chờ sự thông cảm từ phía người nghe. Từ đó, dù sinh viên đã đạt được nhiều thành tích cao trong những phần trình bày trước đó, nhưng nếu mất điểm trong phần bảo vệ này thì cũng sẽ ảnh hưởng đến kết quả chung. Ở phần này, sự khác biệt về văn hóa được thể hiện rõ nét trong cách ứng xử ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của các sinh viên. Đối với nền văn hóa Anh-Mỹ, việc thể hiện ý tưởng cá nhân rất được tôn trọng nên tạo ra sự tự tin cho người nói. Từ đó, việc dùng ngôn ngữ để phát biểu quan điểm là không khó khăn và với họ việc phát biểu sai không hẳn đã làm mất thể diện, mà đôi khi còn thể hiện sự tìm tòi, dám nghĩ dám làm. Ngược lại, CÁCH THỂ HIỆN PHÉP LỊCH SỰ BẰNG PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP NGÔN NGỮ... 151 sinh viên Việt Nam với lối tư duy kiểu phương Đông, quan niệm mất thể diện còn bị ảnh hưởng và có chiều hướng ảnh hưởng tiêu cực, thì họ dễ dàng phản ứng lúng túng hoặc không thể dùng ngôn ngữ đã học để thể hiện sự vững vàng của mình. Có trường hợp sinh viên quá lúng túng khi không thể trả lời câu hỏi phản biện, dẫn đến im lặng một hồi lâu và “sa sầm” nét mặt, bật khóc hoặc chạy về chỗ ngồi trong cảm giác của người thua cuộc (2 sinh viên). So sánh cách bảo vệ đề tài thuyết trình của sinh viên Anh-Mỹ và của sinh viên khoa tiếng Anh trường Đại học Ngoại ngữ Huế, có thể nhận thấy một số nét khác biệt như sau: Phạm trù SV Anh-Mỹ SV Việt nam Cách mời đặt câu Rất tích cực, cách mời tự nhiên, ngôn Được làm như một thủ tục cần phải có, hỏi ngữ mang tính chào đón đôi khi gượng ép, ngôn ngữ thể hiện tính bó buộc, khuôn phép Cách phản ứng Bình tĩnh, tích cực, chào đón, tự tin Đôi khi mất bình tĩnh, lảng tránh, mất tự với câu hỏi với khả năng ứng xử, biết dùng ngôn tin với khả năng, lúng túng và có cảm ngữ để trì hoãn hoặc dẫn dắt vấn đề giác sợ mất mặt trong trường hợp không sang hướng có lợi trả lời được hoặc trả lời sai câu hỏi Cách thảo luận Sẵn sàng tranh luận cho đến khi hai Đôi khi phản ứng tiêu cực với người câu trả lời bên thống nhất câu trả lời. nghe, từ chối trả lời hoặc phủ định ý hỏi, Sẵn sàng tiếp tục mở rộng vấn đề có khi tìm kiếm sự chấm dứt thảo luận để tranh luận tránh mở rộng vấn đề. (Nguồn: tham khảo bài phát biểu, thuyết trình của SV Úc (ĐH Sydney), Anh (ĐH St. Mark and St. John) và Hoa kỳ (ĐH Augustana)- Bài thuyết trình của SV ĐHNN Huế) Kết quả này cho thấy chuẩn bị cho bất kỳ phần nào của bài thuyết trình cũng quan trọng. Những sinh viên bỏ ra nhiều công sức tìm hiểu khán giả, tìm hiểu kỹ đề tài mình trình bày và nhất là có những chuẩn bị công phu về ngôn ngữ biểu đạt cũng như ngôn ngữ cơ thể thông qua những hành động phi ngôn thì có thể vượt qua những trở ngại nói trên một cách dễ dàng và đồng thời mang lại hiệu quả cao cho bài thuyết trình. 5. KẾT LUẬN Nói chung, sinh viên khi đã chuẩn bị thuyết trình đều có ý thức tìm hiểu hoặc được hướng dẫn những cách thức diễn đạt bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để đảm bảo cho bài thuyết trình của mình đạt được những chuẩn mực cần thiết về mức độ trang trọng và lịch sự. Tuy nhiên, không phải sinh viên nào cũng có thể chuyển từ ý thức đó thành biểu hiện cụ thể để đạt được sự hoàn mỹ cho chính bài thuyết trình của mình. Những biểu hiện thiếu trang trọng lịch sự không phải là do sinh viên cố ý gây ra để làm mất thể diện mình và người đối diện. Kết quả khảo sát chung và phỏng vấn trực tiếp một số sinh viên cho thấy vì thiếu sự chuẩn bị kỹ lưỡng và luyện tập chưa thấu đáo đã dẫn đến các biểu hiện nêu trên một cách vô thức. Chính vì thế, để có thể giúp sinh viên tiến đến đạt chuẩn trong các bài diễn thuyết, cần nhấn mạnh yếu tố tiếp thu ngôn ngữ và việc thường xuyên luyện tập có góp ý để sinh viên có thể dần dần sở hữu những chiến lược hữu ích. Bài thuyết trình thành công tại lớp chỉ mới là tiền đề cho những bài thuyết trình, báo cáo khác quan trọng hơn trong toàn khóa học như đề tài nghiên cứu khoa học, khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập tốt nghiệp Các giáo viên giảng dạy môn diễn thuyết cũng nên quan tâm giới thiệu những 152 ĐỖ THỊ XUÂN DUNG yếu tố ngôn ngữ lồng ghép trong ngữ cảnh các chuẩn mực văn hóa, xã hội để sinh viên có thể tiếp cận cũng như có cái nhìn khách quan, tích cực hơn với việc thể hiện phép lịch sự trong những bài thuyết trình của mình; để vừa gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc và vừa tiếp cận các chuẩn mực văn hóa các nước nói tiếng Anh. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Aswill, M.A. (2005). Vietnam Today, A Guide to a Nation at the Crossroads. Intercultural Press. Online version, retrieved on October, 2010 [2] Beebe S.A & S.J. Beebe (1995). Public Speaking- An Audience-centred Approach. Prentice Hall. [3] Beeching, K. (2002). Gender, Politeness and Pragmatic Particles in French. Amsterdam: John Benjamins Publishing Company. [4] Brown, P. and S. Levinson (1987). Politeness: Some universals in Language Usage. Cambridge: CUP. [5] Cupach, W. R. & S. Metts (1994). Facework. Thousand Oaks: SAGE Publications. [6] Eryilmaz, D. and S. Darn (2005). Non-verbal communication. [7] Goffman, E. (1955). On Face-work: An Analysis of Ritual Elements in Social Interaction. In “Language, Culture and Society. A Book of readings.”_Ben G. Glount. 1974. Cambridge: Winthrop Publishers. [8] Goffman, E. (1967). Interaction Ritual: Essays on Face-to-face Behaviour. New York: Pantheon. [9] Leech. G.(1983). Principles of Pragmatics. London: Longman. [10] Levine, D. R and M. B. Adelman (1993). Beyond Language: Cross Cultural Communication. Prentice Hall. [11] Mao, L. R. (1994). Beyond Politeness Theory: “Face” revisited and renewed. Journal of Pragmatics 21, 451-486. [12] Watts, R. J. (2003). Politeness. Cambridge: Cambridge University Press. Title: POLITENESS STRATEGIES EMPLOYED BY HUCFL STUDENTS OF ENGLISH IN THEIR PRESENTATIONS THROUGH VERBAL AND NON-VERBAL COMMUNICATION Abstract: The article proposes and discusses the concept of politeness as shown in language acts and non-verbal communication. Politeness is a cultural-bound concept. Its significance and interpretation, therefore, differ from one culture to another, one language to another. An utterance or another speech act is seen as a politeness strategy in this culture; however it may offend the hearers in another country. After summarizing some key issues of the face and politeness concepts, speech acts, and its strategies, the article claims different uses of verbal and non-verbal communication acts employed by students of 4th year-English major and second- degree-English major in their public speaking classes, especially in the presentation in front of a big audience. It is hoped that these are references for those who wish to reach not only a standard in their professional presentation, but to meet the demand of adaptation into the English- speaking cultures. ThS. ĐỖ THỊ XUÂN DUNG, Phòng KHCN - HTQT, Trường Đại học Ngoại ngữ Huế.
File đính kèm:
- cach_the_hien_phep_lich_su_bang_phuong_tien_giao_tiep_ngon_n.pdf