Cách mạng công nghiệp 4.0 - Minh chứng sinh động luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác
Với việc vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu các lĩnh vực xã hội (nhất
là nền sản xuất xã hội), Các Mác dự báo: Khi hàm lượng khoa học ngày càng gia tăng
trong trình độ người lao động và công cụ lao động sẽ làm cho tư bản cố định chuyển hóa
đến mức độ nhất định nào đó thì trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự ra đời và phát
triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay là minh chứng thuyết phục cho dự báo
thiên tài của C.Mác cách đây 160 năm. Làm rõ luận điểm “khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp” của C.Mác trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng để luận chứng một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của khoa học và
công nghệ (KH&CN) đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách mạng công nghiệp 4.0 - Minh chứng sinh động luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác
hần mềm và hệ thống mạng đang trở nên ngày càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và vì vậy đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế toàn cầu. Đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đó là những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trên nhiều lĩnh vực nhờ khả năng kết nối thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận với cơ sở dữ liệu lớn; tốc độ không có tiền lệ trong lịch sử, theo hàm cấp số mũ. FIR làm thay đổi căn bản cách thức con người tạo ra sản phẩm, từ đó tạo nên “cách mạng” về tổ chức các chuỗi sản xuất - giá trị. Hiện nay, cách mạng công nghiệp 4.0 nổi lên ba xu hướng lớn, bao gồm vật lý (xe tự lái, công nghệ in 3D, rô bốt cao cấp, vật liệu mới); kỹ thuật số (sự xuất hiện internet của vạn vật - Internet of Things, IoT) và sinh học (giải trình, kích hoạt, chỉnh sửa gen, DNA). So sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển với tốc độ ở cấp số nhân, tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị; làm thay đổi mạnh mẽ, toàn diện nền kinh tế mỗi quốc gia về cấu trúc, trình độ phát triển, tốc độ tăng trưởng, mô hình kinh doanh, thị trường lao động, Nói một cách tổng quát, thực chất cách mạng công nghiệp 4.0 chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất ở trình độ cao dựa trên KH&CN. Nói cách khác, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, sự xâm nhập trực tiếp và nhanh chóng của tri thức khoa học vào tất cả các bộ phận trong kết cấu lực lượng sản xuất, mà trước hết là người lao động và công cụ lao động, sẽ tạo ra những công nghệ tiên tiến, hiện đại, mang tính cách mạng - những biểu hiện của cách mạng công nghiệp 4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra yêu cầu và tạo ra cơ hội, động lực thúc đẩy KH&CN phát triển. Đó chính 110 là biện chứng giữa khoa học, công nghệ với cách mạng công nghiệp 4.0. Như vậy, cách mạng công nghiệp 4.0 chính là minh chứng sinh động cho luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác trong thời đại hiện nay. 2.3. Giải pháp phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại cơ hội cho mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam có thể phát triển nhanh bằng cách đi tắt, đón đầu. Nó đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ, làm biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực KH&CN; mang đến những cơ hội, động lực, cùng những đòi hỏi, thách thức lớn hơn đối với sự phát triển KH&CN. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải có chiến lược phát triển khoa học, công nghệ phù hợp với xu thế trên thế giới trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nhận thức rõ vấn đề này, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016, tr.119-120) đã tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của KH&CN và nhấn mạnh: “Phát triển mạnh mẽ KH&CN, làm cho KH&CN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại”, “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới... lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”. Nhiều chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN đã được ban hành như Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI (năm 2012) “Về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Luật KH&CN (năm 2013), Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Có thể nói, trong những năm qua, KH&CN đã có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế-xã hội trên tất cả các lĩnh vực. KH&CN góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Một số ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực trong phát triển kinh tế-xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh. Hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ có chuyển biến tích cực; tiềm lực khoa học, công nghệ được nâng lên. Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ được tăng cường. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ có bước tiến bộ. Thị trường khoa học, công nghệ đã hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. Các thành tựu của KH&CN được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong lao động sản xuất và đời sống của người dân Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, KH&CN chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế-xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội cho KH&CN chưa 111 được chú trọng. Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ còn nhiều bất cập. Thị trường KH&CN phát triển chậm. Công tác quy hoạch, phát triển KH&CN chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hợp tác quốc tế về KH&CN còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp. Đây thực sự là những nguy cơ cản trở sự phát triển bền vững của nền KH&CN đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Để phát triển KH&CN Việt Nam tương xứng với vị thế, vai trò trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, tận dụng có hiệu quả những thời cơ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra, đòi hỏi phải tiến hành toàn diện, đồng bộ nhiều giải pháp cụ thể, trong đó cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số biện pháp cốt lõi sau đây: Một là, chú trọng huy động các nguồn lực đầu tư và thực hiện xã hội hóa lĩnh vực KH&CN. Huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển KH&CN. Rà soát, ban hành cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực đầu tư, khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực này. Tăng cường nguồn vốn huy động của các tổ chức, cá nhân trong nước từ hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cá nhân... Chú ý huy động nguồn vốn của tổ chức, cá nhân ngoài nước, chủ yếu là vốn đầu tư trực tiếp thành lập cơ sở KH&CN 100% vốn nước ngoài; vốn liên doanh, liên kết giữa các cơ sở trong nước và ngoài nước; vốn không hoàn lại, vốn quyên góp, cho tặng dưới các hình thức khác nhau của các tổ chức quốc tế, của chính phủ, phi chính phủ hoặc các công ty, tập đoàn kinh tế và các cá nhân nước ngoài,... cho hoạt động KH&CN. Hình thành các tổ chức nghiên cứu KH&CN tập trung để hỗ trợ giải quyết các nhu cầu về công nghệ của doanh nghiệp. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia liên kết đào tạo nguồn nhân lực KH&CN cũng như thu hút nhân lực kỹ thuật cao từ nước ngoài. Tiếp tục chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học theo mô hình tổ chức KH&CN công lập, quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập. Phát huy và tăng cường tiềm lực KH&CN quốc gia. Tập trung đầu tư phát triển một số viện KH&CN, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới. Chú ý phát triển KH&CN, nâng cao hiệu quả thực tiễn của nó trong phát triển lực 112 lượng sản xuất, để khoa học thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Hai là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, mở rộng thị trường hoạt động KH&CN. Chú trọng đổi mới, từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại. Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức KH&CN; xây dựng một số trung tâm nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ KH&CN, phát triển thị trường KH&CN. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập. Tăng cường liên kết giữa các tổ chức KH&CN với doanh nghiệp; mở rộng hình thức liên kết giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông. Xóa bỏ cơ chế quan liêu, độc quyền trong khoa học để tạo điều kiện, môi trường cho cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực này. Khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, đổi mới công nghệ. Đổi mới chiến lược công nghiệp Việt Nam, ưu tiên thúc đẩy phát triển KH&CN mũi nhọn, như công nghệ nano, in 3D, công nghệ sinh học phân tử, công nghệ di truyền, công nghệ của trí tuệ nhân tạo, Tận dụng tốt các cơ hội do cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại để phát triển KH&CN, qua đó phát triển nhanh lực lượng sản xuất. Ba là, đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo và hợp tác quốc tế về nguồn nhân lực. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo. Tiếp tục đổi mới công tác lý luận trong lĩnh vực KH&CN, 113 nhất là đối với những vấn đề mang tính chiến lược và tính dự báo, làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển KH&CN. Chú trọng đào tạo nhân lực về mặt công nghệ và tri thức mới cũng như xây dựng một môi trường hỗ trợ sáng tạo. Đầu tư có chiều sâu và hiệu quả để các trường đại học trọng điểm đi đầu trong nghiên cứu khoa học, công nghệ mới, tiên phong trong khởi nghiệp ở lĩnh vực công nghệ và tri thức. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực lao động kỹ thuật theo hướng thích ứng với nhu cầu thị trường (kể cả với những thị trường công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu quy mô lớn) và phục vụ trực tiếp nhu cầu của doanh nghiệp. Bốn là, xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ KH&CN, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ KH&CN phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của họ. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học. Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về KH&CN. Các bộ, ngành, tỉnh, thành phố rà soát, đánh giá, đồng thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật với các tiêu chí cụ thể nhằm thu hút, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh cán bộ KH&CN. Tạo cơ chế hoạt động, tổ chức nhiều diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế-xã hội. Có kế hoạch bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ KH&CN một cách hợp lý. Đề ra cơ chế, chính sách thu hút, tập hợp cán bộ KH&CN là người Việt Nam ở nước ngoài tích cực tham gia hiến kế, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mới. Các bộ, ngành Trung ương, cũng như các tỉnh, thành phố chú trọng công tác thi đua khen thưởng hằng năm, nhằm khuyến khích, tôn vinh cán bộ KH&CN có thành tích trong hoạt động khoa học và phát triển công nghệ, thông qua việc tổ chức trao tặng các giải thưởng về sáng tạo KH&CN. 3. Kết luận Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang thực sự làm cho KH&CN trở thành động lực phát triển hàng đầu của lực lượng sản xuất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Luận điểm nổi tiếng “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác đã và đang trở thành hiện thực. Có được điều đó, một mặt, nhờ logic phát triển nội tại của tri thức khoa học trải qua hàng chục thế kỷ, mặt khác, nhờ những điều kiện kinh tế-xã hội đã phát triển đến 114 độ chín muồi. Đến lượt mình, việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đã có tác động mạnh mẽ, đem lại hiệu quả cao không chỉ đối với lĩnh vực sản xuất mà còn đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức là những biểu hiện rõ ràng nhất, toàn diện và sâu sắc nhất của quá trình khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đồng thời, cũng khẳng định tính đúng đắn, khoa học trong luận điểm này của C.Mác. Việt Nam đang từng bước phát triển kinh tế tri thức, cần phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết về con người, về KH&CN, về định hướng đầu tư và huy động nguồn lực tài chính vào phát triển KH&CN cũng như sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này để phát triển nhanh và bền vững./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. C.Mác và Ph.Ăngghen (1844), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 2. C.Mác và Ph.Ăngghen (1857), Toàn tập, tập 46, phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 3. C.Mác và Ph.Ăngghen (1896), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Trần Đắc Hiến, 2015. Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác và sự vận dụng ở nước ta hiện nay, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 18/09/2015, < 1918201511214046.html>. 7. Phạm Thị Ngọc Trầm (2016), Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác và vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay, Báo điện tử Viện Triết học, ngày 12/01/2016, < chuyen-de/Nghi-quyet-Dang-va-cuoc-song/Luan-diem-khoa-hoc-tro-thanh-luc-luong- san-xuat-truc-tiep-cua-C-Mac-va-van-de-phat-trien-kinh-te-tri-thuc-o-Viet-Nam-hien- nay-556.html> 8. Nguyễn Bá Ân, 2017. “Cơ hội và thách thức”, Báo Nhân dân hàng tháng online, ngày 29/09/2017, < thach-thuc.html>. 9. Vũ Duy Thông, 2017. “Cách mạng công nghiệp 4.0 và những thách thức toàn cầu”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 25/09/2017, < thuc-toan-cau-455295.html>.
File đính kèm:
- cach_mang_cong_nghiep_4_0_minh_chung_sinh_dong_luan_diem_kho.pdf