Các nguyên tắc của kế toán phát triển bền vững
Kế toán bền vững tập trung vào việc cung cấp thông tin để đánh giá rủi ro và cơ hội mà các doanh nghiệp c Kế toán tài chính dựa trên các nguyên t ó thể có trong các hoạt động mang t ắc, giả đính bền vững. ịnh cơ bản của kế toán để đáp ứng các mục tiêu của Báo cáo tài chính nhằm cung cấp thông tin tài chính hữu ích cho người sử dụng các Báo cáo. Những định đề, nguyên tắc này gồm: Hoạt động liên tục, đơn vị kế toán, kỳ kế toán và đơn vị tiền tệ. Bài báo nêu lên các nguyên tắc cơ bản của kế toán tài chính được hiểu như thế nào trong kế toán phát triển bền vững, từ đó là cơ sở vận dụng các nguyên tắc kế toán khi thực hành kế toán phát triển bền vững trong các doanh nghiệp
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Các nguyên tắc của kế toán phát triển bền vững", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nguyên tắc của kế toán phát triển bền vững
cũng cho các bên liên quan khác. Thông tin được cung cấp liên quan đến rủi ro và cơ hội trong các lĩnh vực trọng tâm liên quan đến tính bền vững của doanh nghiệp như: nguồn lực xã hội và con người, nguồn lực môi trường, nguồn lực công nghệ trong quy trình sản xuất (ANEX, R. P. & ENGLEHARDT, J. D. 2001). Kế toán tài chính dựa trên các nguyên tắc, giả định cơ bản của kế toán để đáp ứng các mục tiêu của báo cáo tài chính nhằm cung cấp thông tin tài chính hữu ích cho người sử dụng các báo cáo. Những định đề, nguyên tắc này gồm: Hoạt động liên tục, đơn vị kế toán, kỳ kế toán và đơn vị tiền tệ. Chúng không trực tiếp áp dụng cho báo cáo phát triển bền vững, nhưng cung cấp các cơ sở để phát triển kế toán bền vững (ARONSSON, T. & LÖFGREN, K.-G. 2009). Kế toán bền vững tập trung vào việc cung cấp thông tin để đánh giá rủi ro và cơ hội mà các doanh nghiệp có thể có trong các hoạt động mang tính bền vững. Trong sự phát triển của một xã hội bền vững, người ta chỉ ra rằng việc phân định theo cách truyền thống với đơn vị báo cáo là doanh nghiệp hoặc tập đoàn không phản ánh toàn bộ trách nhiệm của doanh nghiệp. Trách nhiệm bền vững liên quan đến các khía cạnh bền vững của sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra và phải có trách nhiệm trong suốt thời gian hữu ích của sản phẩm đến trách nhiệm xử lý, tái chế sản phẩm. Kế toán bền vững có trọng tâm rộng hơn với các bên liên quan. Mục đích của kế toán bền vững là phản ánh một cách có hệ thống, đánh giá rủi ro và cơ hội của doanh nghiệp bằng cách sử dụng các chỉ số bền vững trong từng lĩnh vực. Báo cáo bền vững được sử dụng nội bộ để hỗ trợ ra quyết định nội bộ cũng như được sử dụng ở bên ngoài bởi các bên liên quan. Tuyên bố bền vững là cơ sở cho các bên liên quan, cả bên trong và bên ngoài, đánh giá rủi ro và cơ hội bền vững. NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN36 Số 141 - tháng 7/2019 kế toán bền vững Kế toán bền vững (còn được gọi là kế toán xã hội, kế toán xã hội và môi trường) xuất hiện từ khoảng 20 năm trước và được coi là một loại hình kế toán tập trung vào trình bày thông tin phi tài chính về hoạt động của một đơn vị cho các bên liên quan như chủ sở hữu vốn, chủ nợ và các cơ quan chức năng khác. Kế toán bền vững phản ánh các hoạt động có tác động trực tiếp đến xã hội, môi trường và hiệu quả kinh tế của một tổ chức. Kế toán bền vững trong kế toán quản trị được sử dụng để ra các quyết định nội bộ và tạo ra các chính sách mới có ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị về kinh tế, sinh thái và xã hội (được gọi là kế toán ba cực: Con người, xã hội, lợi nhuận). Kế toán bền vững thường được sử dụng để tạo ra giá trị tăng thêm trong một tổ chức. Kế toán bền vững là một công cụ được các đơn vị, tổ chức sử dụng để phát triển bền vững hơn. Các công cụ được sử dụng rộng rãi nhất trong kế toán bền vững là Báo cáo phát triển bền vững doanh nghiệp (CSR) và kế toán ba dòng hay kế toán 3 cực hay Triple-P. Đây chính là cách thức mở rộng của kế toán truyền thống để cải thiện tính minh bạch và trách nhiệm của doanh nghiệp bằng cách báo cáo trên Triple-P. Các nguyên tắc kế toán bền vững Hoạt động liên tục Hoạt động liên tục dựa trên giả định rằng một doanh nghiệp sẽ tiếp tục hoạt động trong tương lai gần và có thể hoàn thành các hoạt động, đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình. Khái niệm này ảnh hưởng đến việc định giá tài sản và trách nhiệm pháp lý. Khi giả định hoạt động liên tục không được đáp ứng, phương pháp định giá khác phải được sử dụng. Sự liên tục có thể bị gián đoạn một cách tự nguyện bằng cách đóng cửa doanh nghiệp hoặc tự nguyện tuyên bố phá sản và không tự nguyện bằng hành động pháp lý để buộc chấm dứt kinh doanh. Tính bền vững về nguyên tắc dựa trên cùng một ý tưởng với giả định liên tục truyền thống, nhưng kỳ hoạt động được kéo dài để bao gồm cả thời gian cần thiết để hoàn thành các mục tiêu bền vững như xử lý sản phẩm, làm sạch môi trường... Nếu một doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đáp ứng các nghĩa vụ liên quan đến các nguồn lực liên quan đến tính bền vững của doanh nghiệp như: - Về tài nguyên xã hội và con người, tài nguyên môi trường và tài nguyên công nghệ. - Doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động trong tương lai, thì giả định hoạt động liên tục trong bối cảnh phát triển bền vững được định NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 37Số 141 - tháng 7/2019 nghĩa là: Doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động trong tương lai gần và có thể đáp ứng các cam kết về tài chính và bền vững, bao gồm nhưng không giới hạn trong vòng đời sản phẩm, về việc tái chế, xử lý, làm sạch môi trường... Giả định này cho rằng trọng tâm của kế toán bền vững là cung cấp cơ sở cho đánh giá doanh nghiệp về rủi ro và cơ hội liên quan đến tất cả các khía cạnh hoạt động của công ty. Khoảng thời gian này sẽ dài hơn thời gian liên tục cho mục đích lập báo cáo tài chính thông thường, đặc biệt nếu vòng đời sản phẩm dài và yêu cầu xả thải, xử lý và phục hồi vào cuối vòng đời. Khái niệm hoạt động liên tục cũng có tác động đến bảo toàn vốn (ASCUI, F. & LOVELL, H. 2012). Đơn vị kế toán Theo kế toán tài chính, khái niệm đơn vị kế toán dựa trên quyền sở hữu và kiểm soát, toàn bộ doanh nghiệp được coi là một thực thể kế toán. Khái niệm đơn vị kế toán cung cấp một cơ sở cho các phương pháp được sử dụng trong kế toán tài chính truyền thống như báo cáo kết quả (lợi nhuận), tài sản, các khoản nợ, thanh khoản... cho toàn bộ doanh nghiệp. Kế toán bền vững, tập trung vào đánh giá rủi ro liên quan đến việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực khác nhau, nên các khái niệm giống như trong kế toán tài chính không thể luôn luôn được sử dụng. Rủi ro liên quan đến việc sử dụng tài nguyên của một doanh nghiệp bắt đầu từ nguyên liệu thô và tiến tới đưa nguyên liệu vào sản xuất. Sau khi sản xuất, sản phẩm được sử dụng và cuối cùng được xử lý, được tái chế và có thể yêu cầu xả thải, dọn vệ sinh..., cũng liên quan đến rủi ro. Để đánh giá một cách hệ thống về rủi ro và cơ hội có thể có, ta có khái niệm sau đây về đơn vị kế toán bền vững: Đơn vị kế toán bền vững thực hiện tất cả các hoạt động mà qua đó doanh nghiệp có thể kiểm soát được tính bền vững. Kiểm soát tính bền vững có thể được thực hiện trực tiếp đối với các hoạt động của công ty hoặc gián tiếp thông qua một đơn vị khác để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của doanh nghiệp mình. Kiểm soát gián tiếp cũng có nghĩa là một doanh nghiệp chịu trách nhiệm cho các sản phẩm doanh nghiệp đã bán. Trách nhiệm bao gồm trách nhiệm đối với các sản phẩm, việc tái chế và xử lý sản phẩm. Hình 1. Khái niệm đơn vị kế toán bền vững Phạm vi trách nhiệm bền vững kể từ khi một doanh nghiệp ký hợp đồng với các nhà cung cấp đến khi ký hợp đồng với các công ty tái chế để trao đổi thông tin liên quan đến các chỉ số bền vững. Thực tế, sản phẩm đang được sử dụng cần phải được theo dõi cho đến khi xử lý, tái chế và làm sạch môi trường. Như vậy, khái niệm đơn vị kế toán bền vững là một đơn vị bao hàm cả bản thân doanh nghiệp, nhà cung cấp, khách hàng (trong việc sử dụng sản phẩm, thu hồi, tái chế, làm sạch môi trường). Tổng hợp tất cả các khía cạnh bền vững từ nguyên liệu thô đến tái chế... về thời gian và không gian là một vấn đề tương đối khó khăn. Kỳ báo cáo Trong kế toán tài chính, các doanh nghiệp sử dụng khoảng thời gian như tháng, quý, năm làm kỳ kế toán. Để tính toán Lợi nhuận thuần trong một khoảng thời gian, hai phương pháp khác nhau được sử dụng. Nguyên tắc phù hợp để lập Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trên cơ sở báo cáo dồn tích. Một cách tiếp cận khác đo lường Lợi nhuận thuần là đo lường sự thay đổi trong tài sản ròng trong kỳ không bao gồm sự thay đổi vốn chủ sở hữu. Trong cách thứ hai, lợi nhuận ròng xác định được trên cơ sở doanh thu và chi phí. Cả hai phương pháp đều có những trở ngại: Do nguyên tắc phù hợp khó đánh giá trong tương lai và đo lường tài sản ròng khó về đánh giá giá trị. Kế toán bền vững không tìm cách đo lường lợi nhuận và tình hình tài chính mà dùng để đưa ra NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN38 Số 141 - tháng 7/2019 Hình trên minh họa khoảng thời gian dài từ nguyên liệu thô đến xử lý, tái chế và làm sạch môi trường trong một doanh nghiệp sản xuất. Trong báo cáo phát triển bền vững cho năm dương lịch, kết quả đầu ra chỉ có thể dựa trên việc sản xuất đã diễn ra trong năm, có thể bao gồm các khía cạnh về tính bền vững được báo cáo từ các nhà cung cấp do hàng mua là sản phẩm của nhà cung cấp sản xuất từ các giai đoạn trước. Vì các sản phẩm được sản xuất trong năm chỉ một phần được sử dụng trong giai đoạn này, nên tính bền vững cho sản phẩm sử dụng còn lại, việc tái chế... chỉ được dự báo và ước tính cho tương lai. Do đó, có thể hiểu kỳ báo cáo theo quan điểm bền vững là kỳ kế toán trong đó, báo cáo tài chính của doanh nghiệp được lập trên cơ sở các tài khoản bền vững, ngoài ra đơn vị còn phải lập Báo cáo phát triển bền vững với các chỉ số đo lường và dự báo cho toàn bộ vòng đời của sản phẩm trong tương lai, chỉ rõ trong các tuyên bố bền vững những kết quả được ghi nhận là gì, thực tế và những dự báo dựa trên dữ liệu nào? Đơn vị đo lường Đơn vị đo lường trong kế toán tài chính truyền thống được thể hiện bằng tiền có thể dùng để so sánh giữa các đơn vị và theo thời gian. Báo cáo tài chính được phân tích và sử dụng các số liệu cũng như tỷ suất để làm rõ các rủi ro và cơ hội tài chính. Một trở ngại là giá trị tiền tệ có thể thay đổi theo thời gian do lạm phát, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái... Trong kế toán bền vững cho nguồn lực xã hội và con người, nguồn lực môi trường tài nguyên công nghệ, rất khó để chuyển đổi dữ liệu từ các chỉ số khác nhau đó thành tiền. Do đó, các đơn vị đo lường cho tính bền vững được đưa ra cho từng chỉ số bền vững. Ví dụ là: Tấn carbon dioxide, ngày nhân viên bị ốm... Giá trị của chỉ số bền vững cùng với thông tin tài chính khác là cơ sở để đánh giá rủi ro và cơ hội. Theo thông lệ chung, các yếu tố rủi ro được xếp loại từ 1 đến 9 với 1 là không có rủi ro và 9 rủi ro cao; đối với cơ hội các yếu tố cũng được xếp loại từ 1 đến 9, 1- không có khả năng cải thiện (ngoài việc dừng lại sản xuất hoặc ngừng sử dụng nguồn lực) và 9- cơ hội cải tiến lớn nhất. Trường hợp xấu nhất với kịch bản là 9 trong rủi ro và 1 trong cơ hội (rủi ro rất cao và không có cơ hội tác động đến kết quả). Dựa trên lý do này, một khái niệm liên quan đến đơn vị kế toán bền vững của đo lường là: Tính bền vững được biểu thị bằng mức độ của đơn vị đo Hình 2. Vòng đời sản phẩm và phân định thời gian một cơ sở cho các đánh giá về rủi ro và cơ hội của doanh nghiệp liên quan đến nguồn lực và các sản phẩm của doanh nghiệp sử dụng. Toàn bộ vòng đời sản phẩm cũng được bao gồm trong các đánh giá này. Quá trình này rất dài, do phải mất một thời gian dài từ khi nguyên liệu thô được đưa lên từ mặt đất đến khi các sản phẩm của doanh nghiệp được xử lý cuối cùng có thể từ 10-20 năm trở lên. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 39Số 141 - tháng 7/2019 lường đại diện cho tính bền vững tương ứng với từng chỉ tiêu. Ngoài việc nghiên cứu các nguyên tắc kế toán trong bối cảnh phát triển bền vững, SASB (Ủy ban chuẩn mực kế toán bền vững) đã đưa ra một số nguyên tắc để hướng dẫn các chuẩn mực kế toán bền vững, đó là: Các chuẩn mực được áp dụng cho tất cả các nhà đầu tư theo cách tiếp cận dựa trên thực nghiệm, nội dung các chuẩn mực liên quan nhiều đến ngành công nghiệp và tập trung vào việc thúc đẩy tạo ra giá trị lâu dài và giảm nhẹ rủi ro cho doanh nghiệp với nguyên tắc lợi ích dự kiến cao hơn chi phí bỏ ra, các nghiệp vụ phát sinh dễ dàng đo lường được, định lượng được khi có thể, có thể so sánh, có thể nhân rộng và kiểm toán được. Các chuẩn mực thể hiện bộ tiêu chí tối thiểu bao gồm sự liên quan, tính hữu dụng, khả năng ứng dụng, hiệu quả chi phí, tính tương đương, tính đầy đủ, tính định hướng và phản ánh quan điểm của các bên liên quan. Nội dung các chuẩn mực có định hướng hỗ trợ chuyển sang báo cáo bền vững tích hợp và có xu hướng hội tụ chuẩn mực kế toán quốc tế. kết luận Phát triển bền vững là một nhu cầu cấp bách đặt ra hiện nay trong sự phát triển của xã hội loài người. Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà trên các mặt: Kinh tế - Xã hội - Môi trường với mục tiêu đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của con người mà không làm tổn hại đến nguồn cung cấp tài nguyên thiên thiên của đất nước, không làm giảm chất lượng cuộc sống của thế hệ tương lai. Phát triển bền vững phải đảm bảo cân bằng xã hội, bảo vệ môi trường, hòa nhập với cộng đồng quốc tế. Kế toán bền vững đưa ra các nguyên tắc kế toán cơ bản được dựa trên các nguyên tắc của kế toán truyền thống, tạo cơ sở cho việc thực hiện kế toán bền vững trong các doanh nghiệp hiện nay. Đây là nền tảng quan trọng thực hiện kế toán bền vững, hình thành nên không gian cho các đối thoại hành động, tạo điều kiện để làm cân bằng các góc độ tài chính, quản lý, sinh thái môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. AHRENS, H. & KANTELHARDT, J. 2009. Accounting for farmers’ production responses to environmental restrictions within landscape planning. Land Use Policy, 26, 925-934. ANDREW, J. & CORTESE, C. 2011. Accounting for climate change and the self-regulation of carbon disclosures. Accounting Forum, 35, 130-138; 2. ANEX, R. P. & ENGLEHARDT, J. D. 2011. Application of a predictive Bayesian model to environmental accounting. Journal of Hazardous Materials, 82, 99-112; 3. ARONSSON, T. & LÖFGREN, K.-G. 2009. Pollution tax design and `Green’ national accounting. European Economic Review, 43, 1457-1474; 4. ASCUI, F. & LOVELL, H. 2012. Carbon accounting and the construction of competence. Journal of Cleaner Production, 36, 48-59; 5. ASDRUBALI, F., PRESCIUTTI, A. & SCRUCCA, F. 2013. Development of a greenhouse gas accounting GIS-based tool to support local policy making—application to an Italian municipality. Energy Policy, 61, 587-594; 6. BALL, A. 2007. Environmental accounting as workplace activism. Critical Perspectives on Accounting, 18, 759-778; 7. BARTELMUS, P. 2012. Accounting for sustainable growth and development. Structural Change and Economic Dynamics, 3, 241-260; 8. BARTELMUS, P. 2013. Green Accounting and Energy. Reference Module in Earth Systems and Environmental Sciences. Elsevier; 9. GRAY, R. 2010. Is accounting for sustainability actually accounting for sustainability and how would we know? An exploration of narratives of organisations and the planet. Accounting, Organizations and Society, 35, 47-62. Ngày nhận bài: 30/03/2019 Ngày duyệt đăng: 15/4/2019
File đính kèm:
- cac_nguyen_tac_cua_ke_toan_phat_trien_ben_vung.pdf