Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre

Jean-Paul Sartre là đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh. Với tác phẩm đầu tay Buồn nôn, được viết

trên phương pháp mô tả hiện tượng học: tất cả cố gắng của Roquentin - nhân vật chính - nhằm xoáy sâu

cái nhìn, xuyên thủng qua những lần vỏ ngoài bao bọc, để đạt đến tri kiến đích thực về bản chất của

thực tại. Sự vật hiện hữu. Sự hiện hữu ấy mang tính chất lầm lì, dày đặc, bất khả giải ngộ và ngẫu nhiên.

Chính cái tính cách bất tất (contingence) của sự vật là chất men gợi dậy cơn Buồn nôn. Ông cho tận

cùng của cơn Buồn nôn ấy, con nguời đảm nhận lấy Tự do trong trách nhiệm để tự thể hiện vận mệnh

cuộc đời mình. Có thể nói rằng Buồn nôn là hồng tâm tư tưởng, là tuyên ngôn của Jean-Paul Sartre về

hiện sinh.

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre trang 1

Trang 1

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre trang 2

Trang 2

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre trang 3

Trang 3

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre trang 4

Trang 4

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre trang 5

Trang 5

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre trang 6

Trang 6

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 4200
Bạn đang xem tài liệu "Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre
uy nhiên để có một hiện hữu đích 
thực thì con người phải nhập cuộc và trong 
hành trình dấn thân đó con người phải đối 
mặt với những trạng huống không dễ chịu, 
đó là hư vô, sự vong thân, sự lựa chọn, sự 
cô đơn, lo âu, trách nhiệm, đó là cái nhìn 
của tha nhân 
128 
Tự do: Roquentin đã dần nhận ra được 
tính chất phi lý ngẫu nhiên của cuộc làm 
người, chàng đã lựa chọn đối mặt với nó, 
với những cơn buồn nôn không trốn chạy, 
nhận lấy nó như một phần hiện hữu và từ 
đây gợi mở cho con người đến với sự tự do 
của những sự chọn lựa. Trong tác phẩm 
này Sartre đã bắt đầu đề cập đến trạng thái 
tự do tuyệt đối của con người, con người 
có quyền lựa chọn: “Ngày chủ nhật, người 
ta đến khu nghĩa trang, hay đến thăm 
những người thân thuộc. Hoặc nữa nếu 
hoàn toàn tự do, người ta sẽ dạo chơi trên 
đường Jatée. Tôi hoàn toàn tự do: tôi đi 
trên đường Bressan đổ ra đường Jatée – 
Promenade” [5,tr. 97]. 
Ngụy tín (sự vong thân): Mặc dù luôn 
phải đối mặt với sự phi lý của cuộc nhân 
sinh nhưng con người không phải lúc nào 
cũng sẵn sàng đón nhận, nhập cuộc để làm 
cho mình có một bộ mặt riêng, bởi con 
người phần thì bị những khuôn thước của 
xã hội lôi kéo, hòa tan, phần thì không dám 
đối mặt với sự mạo hiểm choáng váng 
trước vực thẳm của hư vô, không dám đối 
mặt thừa nhận sự nuốt chửng hư vô. Sartre 
sau này gọi tên trạng thái này là sự ngụy 
tín. Trong Buồn nôn, chính anh chàng 
Roquentin cũng đã nhìn thấy ngụy tín, 
vong thân của những tồn tại phi đích thực 
xung quanh mình. Đó là hình mẫu của 
Pacome mà Roquentin đã gặp ở bảo tảng 
Bouvllie. Hầu như Pacome đã bị “đóng 
khung” vào vị trí của một bậc tôn kính 
vọng trọng và Roquentin đã kết luận rằng 
“Ông chẳng bao giờ quay trở về với chính 
mình các nào khác nữa: ông là một cấp chỉ 
huy” [5,tr. 158] 
Sự lựa chọn: Để nhận lấy sứ mệnh của 
tự do, con người phải đưa ra những sự lựa 
chọn, lựa chọn cho bộ mặt hiện sinh riêng 
biệt của mình: “Nhưng phải chọn lựa: sống 
hay thuật lại đời sống” [5, tr. 76], bởi hiện 
hữu Người chính là sự nắm bắt lấy những ý 
nghĩa của chính khoảnh khắc tạo nên cuộc 
đời tôi, chính là tôi chứ không phải ai khác. 
Và Roquentin đã phải chọn, nhiệm vụ đưa 
chàng đến Bouville là để viết về bá tước 
Rollebon nhưng chàng sử gia đã không tìm 
thấy được đam mê đích thực trong công 
việc này “Tôi chán nản tự nhủ: làm thế nào 
mà tôi, một kẻ chẳng đủ sức mạnh lưu giữ 
chính ngay quá khứ của mình, lại có thể hy 
vọng mình sẽ cứu vãn được quá khứ của 
người khác”, chàng đã lựa chọn sự buông 
bỏ: “Tôi không viết tiếp tác phẩm của mình 
về Rollebon nữa, thế là hết” [5, tr.174]. 
Nhưng ngay sau khi kết thúc sự lựa chọn 
đó Roquetin phải đối mặt với một sự lựa 
chọn khác: “Tôi sắp sửa làm gì đời mình?” 
[5,tr.175]. Và tôi phải chịu trách nhiệm cho 
sự lựa chọn của mình. 
Trách nhiệm: một trách nhiệm rất lớn 
lao khi phải thoát ra khỏi sự buồn nôn nhầy 
nhụa, tức là phải kiến tạo nên sự hiện hữu 
có ý nghĩa của con người. Roquentin đã cố 
gắng thể hiện sự hiện sinh nhập cuộc của 
mình nhưng rồi như chao đảo trước một 
trách nhiệm quá lớn, khi quyết định không 
tiếp tục viết về cuộc đời của Rollebon nữa 
Roquentin đã có một sự dằn vặt, sự thảo 
luận nội tâm trước sự lựa chọn của mình: 
“Tôi phải chấm d Tôi giải Cái chết 
Ông De Roll đã chết Tôi không phải 
làNó còn tệ hại hơn những gì còn lại vì 
tôi cảm thấy mình là kẻ chịu trách nhiệm 
và là đồng lõa.” [5, tr. 183]. 
Ở những dòng cuối cùng của tác phẩm 
chàng Roquentin thể hiện rõ thái độ trách 
nhiệm của mình đối sự lựa chọn cho sự 
nghiệp viết lách: “Một cuốn sách. Một cuốn 
truyện. Và sẽ có những người đọc cuốn 
truyện đó và bảo: “Chính Antoine 
Roquentin đã là tác giả cuốn sách này” 
 Dĩ nhiên toạt tiên nó chỉ là một công việc 
đầy buồn chán và làm ta mệt mỏi , nó không 
ngăn cản tôi tiếp tục hiện hữu và cảm 
nghiệm rằng mình đang hiện hữu Lúc bấy 
giờ, xuyên qua nó, tôi có thể nhớ lại mà 
không kinh tởm cuộc đời mình” [5, tr. 322]. 
129 
Sự cô đơn đối mặt với hiện hữu, với hư 
vô: Tại sao con người lại có cảm giác sợ hãi 
trách nhiệm đó bởi lẽ con người là lữ hành 
cô đơn đối mặt với hư vô trong hành trình 
hiện hữu của mình. Trong tác phẩm Sartre 
đề cấp rất nhiều đến trạng thái hư vô, hư vô 
không phải là không tồn tại mà hư vô là 
trạng thái trống rỗng, không có ý nghĩa: 
“Hư vô, hư vô chỉ là một ý tưởng trong 
đầu óc tôi, một ý tưởng đang hiện hữu 
bềnh bồng trong cõi bao la này: trạng thái 
hư vô đó đã không đến trước hiện hữu, nó 
là một hiện hữu khác, và đã xuất hiện sau 
nhiều hiện hữu khác” [5, tr.247]. 
Sự cô đơn bủa vây lấy con người, 
trạng thái cô đơn không phải là vật lý, mà 
bởi lẽ con người tự do kiến tạo mình không 
bằng một khuôn mẫu sẵn có nào, không thể 
dựa vào ai, không có Thượng đế dẫn dắt, 
do đó con người luôn cảm thấy cô đơn 
trong sự nhập cuộc. Roquentin điểm khởi 
đầu đã khẳng khái tuyên bố: 
“Tôi giả thuyết rằng, người ta không 
thể định giới hạn cho sự cô đơn” [5,tr. 24]. 
Rồi đi tận cùng sự cảm nhận hiện hữu, 
quyết định cho sự lựa chọn, sự nhập cuộc 
của mình thì cuối cùng chàng vẫn bị bất 
lực trước hiện trạng cô đơn: 
“Tôi cô độc trong con đường trắng 
viền quanh những khu vực này. Cô độc và 
tự do” [5,tr. 286]. 
Sự âu lo, sợ hãi: Chính những trăn trở 
hiện sinh làm cho con người âu lo, sợ hãi. 
Mặc dù miệt mài thiết kế cho sự hiện hữu 
của mình có ý nghĩa nhưng nỗi âu lo, sợ 
hãi thường xuyên chiếm ngập tâm hồn hiện 
sinh, ngay khi lúc họ đã là mình, họ phải 
trăn trở cho cái là mình tiếp theo vì nếu 
ngừng lại họ sẽ bị hư vô nuốt chửng, họ sẽ 
lại gặp phải mối đe dọa lớn nhất của hiện 
sinh - hiện hữu phi lý dư thừa. Cho nên 
người hiện sinh luôn phải “nhoài”, phải 
“vắt” mình về phía trước: “Tư tưởng của 
tôi, chính là tôi: đó là lý do vì sao tôi 
không thể ngưng lại được. Tôi hiện hữu 
bởi những gì tôi đang suy tưởng và tôi 
không thể ngăn mình thôi không suy 
tưởng. Ngay cả trong giây phút này – thật 
kinh khủng – nếu như tôi đang hiện hữu, 
thì đấy là vì tôi sợ hãi phải hiện hữu. Chính 
tôi, chính tôi đang thu mình về cõi hư vô 
mà tôi khát vọng: lòng thù ghét, lòng kinh 
tởm hiện hữu, bấy nhiêu tình cảm đó là bấy 
nhiêu cách thái để làm cho tôi hiện hữu, để 
dìm sâu tôi vào trong hiện hữu” [5, tr. 184] 
Tha nhân: Người cứ phải mãi mê tìm 
kiếm sự hiện hữu của mình trong sự cô 
đơn, luôn sợ ngụy tín đánh cắp hiện sinh 
của mình cho nên người rất “cảnh giác” với 
tha nhân. Thông qua cuộc gặp gỡ ban đầu 
với của chàng Roquentin và gã đàn ông 
trong khách sạn Printana, Sartre đã gửi đến 
một thông điệp với tha nhân: “Gã lại nhìn 
chằm chằm vào tôi nữa. Lần này gã sắp sửa 
nói với tôi đây, tôi cảm thấy toàn thân mình 
cứng đờ. Không phải là vì giữa chúng tôi 
đã nảy sinh mối thiện cảm, không: chỉ vì 
chúng tôi giống nhau, thế thôi. Gã cũng cô 
đơn như tôi, song còn chìm sâu vào nỗi cô 
đơn hơn tôi nữa. Hẳn gã đang đợi cơn Buồn 
nôn hay một thứ gì cùng loại. Như thế, hiện 
giờ đã có người đang nhìn nhận tôi, những 
kẻ nghĩ thầm trong đầu – sau khi nhìn kỹ 
khuôn mặt tôi: “Thằng cha đó cũng thuộc 
bọn mình”. Sao? Gã muốn gì cơ chứ? Gã 
phải biết rõ ràng rằng chúng tôi không thể 
làm gì trợ giúp cho nhau được” [5, tr.123]. 
Như vậy giữa tôi và tha nhân không thể 
có sự cảm thông, không có sự trợ giúp và 
còn khủng khiếp hơn tha nhân chỉ chực chờ 
tước đoạt tự do của tôi. Chính vì vậy 
Roquentin dù cho có trở về bên cạnh nàng 
Anny, chàng cũng không thể tìm thấy ở 
Anny như một điểm dừng của chú ngựa 
chùn chân, chàng lại khước từ Anny: “Tôi 
đã toan tính nhờ vào Anny biết là chừng 
nào để tự giải thoát khỏi nỗi khủng khiếp 
mãnh liệt nhất, cơn buồn nôn dữ dội nhất 
của tôi, giờ đây tôi mới hiểu điều ấy. Quá 
khứ của tôi đã chết, Anny chỉ trở về để tước 
130 
đoạt hết mọi hy vọng của tôi” [5, tr. 286]. 
Như vậy, con đường của Buồn nôn đi 
từ nhân vật trốn chạy sự thật đó bằng đủ 
thứ ứng xử nhưng những cơn buồn nôn vẫn 
tồn tại. Buồn nôn như là một biểu tượng về 
bản năng, về sự phi lý của việc con người 
tồn tại bằng một lý do nào. Bản thân những 
cơn buồn nôn đó tự nó không có lý do, 
không lý giải bằng một tầng chìm ký ức 
nào. Cuốn tiểu thuyết kết thúc với hình ảnh 
Roquentin nghe một đoạn nhạc và bỗng 
nhiên hiểu rằng nghệ thuật là điều tất yếu 
duy nhất của con người. Như vậy con 
người đã phải đối diện một cách cô đơn 
giữa ý thức cá nhân và thân phận làm 
người. Có lẽ chính vì vậy mà hiện sinh của 
Sartre luôn bị hiểu nhầm là sự quẫy đạp 
của con người cá nhân trong tính thế tranh 
chấp mong manh, trong sự dòn mỏng của 
số phận. Đó là một nhận xét phiến diện về 
triết thuyết của ông, không phải chỉ đến 
những giai đoạn sau này mà ngay trong tác 
phẩm buồn nôn ông đã “mớm” tư tưởng về 
một tiết lý nhập cuộc, hành động và trách 
nhiệm lớn lao, cao cả của con người đối 
với xã hội. Trong đoạn đối thoại của 
Roquentin và anh chàng Tự Học, mặc dù 
Roquentin quả quyết: “Tất cả chúng ta, 
mỗi khi còn hiện hữu, đều phải ăn và uống 
để bảo tồn cuộc hiện sinh quý báu của 
mình nhưng lại chẳng có gì, chẳng có lấy 
một lý do cỏn con nào để hiện hữu cả” 
[5,tr. 206]. Đáp lại thái độ bi quan đó của 
Roquentin, chàng Tự Học đã đáp trả: 
“Cuộc đời có một ý nghĩa nếu ta muốn ban 
cho nó một ý nghĩa. Trước hết phải hành 
động, lao mình vào một công việc À, có 
một mục đích, thưa ông, có một mục 
đích còn có loài người” [5, tr. 207]. 
3. Kết luận 
Tóm lại, La Nausée (Buồn nôn) là 
tuyên ngôn của thuyết hiện sinh và được 
nhìn nhận là một trong những tiểu thuyết 
hay nhất của Sartre. Những trải nghiệm của 
Roquentin trong tác phẩm này biểu hiện 
phần lớn những chủ đề chính của “L’Être 
et Le Néant” (Hữu thể và vô thể) xuất bản 
5 năm sau. Tác phẩm được xem như sự 
trầm tư nối dài về ngẫu nhiên của sự sống 
và nổi khắc khoải của tinh thần phản ảnh 
hiện tượng ngẫu nhiên đó. Trong một 
thoáng trầm tư về cái rể cây, Roquentin 
cảm nhận được sự tàn nhẫn trong sự hiện 
hữu của nó và của mình: cả hai đơn thuần 
chỉ hiện hữu ở đó, không một biện minh 
nào, thừa thải. Tính cách vật lý của cảm 
thức bệnh hoạn đầy mặc khải này không 
nên bị xem thường. Tương tự như sự bối 
rối trước cái nhìn của Tha nhân, ý hướng 
cơ thể của chúng ta luôn mặc khải một thực 
thể siêu hình. 
Trong sự nhập cuộc của mình, con 
người hiện sinh đã cố gắng đưa ra một giải 
thoát cho tâm tư, bằng sự thể hiện vào trạng 
thái hiện sinh tuyệt đối. Nhưng trên thực tế, 
con người hiện sinh vẫn chỉ là con người 
hữu hạn, bị giới hạn một cách tàn nhẫn. 
Trong truyện, nhân vật luôn luôn buồn nôn 
như một thái độ phản kháng những gì thuộc 
về lí tính cứng nhắc siêu hình. Nhân vật 
chính Roquentin đang trên con đường khám 
phá lí do tồn tại của con người là không có 
lí do gì hết. Con người là một hiện thực 
ngẫu nhiên, không có lí do tồn tại. 
Điểm mấu chốt của thuyết hiện sinh là 
con người phải hành động, là sự dấn thân 
và trải nghiệm. Con người, trước hết chỉ là 
hư vô, vì vậy con người không thể định 
nghĩa được. Con người phải hiện hữu, gặp 
gỡ, xuất hiện trong thế giới đã, rồi mới 
được định nghĩa. Và con người chỉ tồn tại 
sau đó, chỉ tồn tại như những gì mà nó 
được làm ra. Điều đó được thể hiện qua sự 
hành động, sự dấn thân và sự trải nghiệm. 
Chính từ đây, có thể nói rằng thuyết hiện 
sinh định nghĩa con người bằng hành động. 
Như vậy, tác phẩm “Buồn nôn” đã đưa 
đến cho chúng ta một triết thuyết về hiện 
sinh, đây cũng là điểm thành công làm nên 
tên tuổi của tác phẩm. Theo đó, triết thuyết 
131 
hiện sinh cho rằng chúng ta đều là những 
thực thể tự do và vì vậy, đều có trách 
nhiệm với mọi sự lựa chọn và hành động 
của bản thân mình, chúng ta là tác giả của 
cuộc đời mình và kiến thiết những gì chúng 
ta đeo đuổi. Đọc Buồn nôn có thể nhận 
thấy được những trạng huống đầy đủ của 
hiện sinh mà sau này Sartre tiếp tục làm rõ 
hơn ở các tác phẩm tiếp theo, cho nên 
“Buồn nôn” được xem như là tuyên ngôn 
của Sartre về hiện sinh. 
Trần Thái Đỉnh trong phần mở đầu 
cho khảo luận về hiện sinh của Jean Paul – 
Sartre đã phát biểu: “Người ta có lý để coi 
cuốn tiểu thuyết La nausea (Buồn nôn) của 
Sartre như bản tuyên ngôn triết hiện sinh 
của ông. Điều chắc chắn: cuốn tiểu thuyết 
đó đã phổ biến tư tưởng hiện sinh phi lý 
của Sartre trong đại chúng. Cũng chính 
trong cuốn sách đó, ông đã trình bày tư 
tưởng của ông về vũ trụ vạn vật một cách 
đầy đủ và dễ hiểu” [2, tr.310]. 
Võ Công Liêm đã có nhận định trong 
bài viết Jean Paul Sartre với buồn nôn đăng 
trên tạp chí điện tử tonvinhvanhoadoc như 
sau: “Buồn Nôn không còn là hư cấu, nó 
trở nên một luận cứ triết học của học thuyết 
hiện sinh mà Jean-Paul Sartre là kẻ đưa 
đường. Tác phẩm Buồn Nôn của ông đã 
để lại hậu thế những giá trị tuyệt đối, vượt 
thời gian qua những án văn chương bất hủ, 
một phạm trù triết học đầy nhân tính trong 
thuyết hiện sinh của ông. Jean-Paul Sartre 
là nhân vật thời thượng qua mọi thời đại 
của nền văn học sử hiện đại” 
Tác giả Andre Niel nhận định: “Chìa 
khóa của Triết học Sartre là sự phân tích 
tâm bệnh lý học về hiện tượng “buồn nôn”, 
hiện tượng Sartre cho là phát sinh do cảm 
thức về tính chất bất tất, ngẫu nhiên của thế 
giới” [1, tr.17] 
Paul Arthur Schilpp thì khẳng định: 
“Các vấn đề triết học Sartre về phong trào 
và hành động, về ý thức và thân xác, về di 
chuyển và trú ẩn được xây dựng đầy đủ 
nhất trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên Buồn 
nôn. Mặc dù Sartre đã thực sự có một sự 
thay đổi đáng kể trong sự nghiệp nhưng 
những vấn đề cơ bản của Sartre về nhân 
bản vẫn không thay đổi kể từ khi xuất bản 
tiểu thuyết này Như một số nhà phê bình 
đã nhận định, Buồn nôn không chỉ dừng lại 
với tư cách là thành tựu đầu tiên của Sartre, 
vốn dĩ dễ dàng bị vượt qua hay phủ định 
bởi những cống hiến tiếp theo của chính 
tác giả trong quá trình trưởng thành của sự 
nghiệp. Hầu như không có một chủ đề nào 
được mở ra trong các tác phẩm sau này của 
Sartre mà không mang bóng dáng của 
những tư tưởng mà Sartre đã đặt nền móng 
trong tác phẩm đầu tiên này” [7, p.480]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Andrê Niel (1968), Jean-Paul Sartre anh 
hùng và nạn nhân của “ý thức khốn khổ”, 
Nxb Ca Dao, Sài Gòn. 
2. Trần Thái Đỉnh (1968), Triết học hiện sinh, 
Nxb Thời Mới, Sài Gòn. 
3. Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện 
sinh chủ nghĩa, Nxb Văn học, Hà Nội. 
4. Jean-Paul Sartre (1966), a nause , Le Livre 
De Poche, France. 
5. Jean-Paul Sartre (1967), Buồn nôn, Nxb An 
Tiêm, Sài Gòn. 
6. Nguyễn Quang Lục (1970), Mổ xẻ nhà văn 
hiện sinh Jean-Paul Sartre, Nxb Hoa Muôn 
Phương, Sài Gòn. 
7. Paul Arthur Schilpp (1991), The philosophy of 
Jean-Paul Sartre, Open Court Publishing 
Company, La Salle, Illinois, USA. 
gioi/tac-pham/8145-jean-paul-sartre-voi-
buon-non.html. 
Ngày nhận bài: 16/5/2016 Biên tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăng: 20/11/2016 

File đính kèm:

  • pdfbuon_non_tuyen_ngon_hien_sinh_cua_jean_paul_sartre.pdf