Ảnh hưởng của kinh tế, dân cư và văn hóa đến hoạt động của báo chí ở thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Báo chí là một bộ phận của thiết chế văn hóa, thuộc kiến trúc thượng tầng của xã
hội, vận động và biến đổi cùng với những yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng. Do vậy, nghiên cứu
về báo chí Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm 2006-2016 phải được đặt trong
tổng thể những biến đổi tình hình kinh tế – xã hội của Thành phố. Sự biến đổi đó đang tác
động hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, tạo nên môi trường hoạt động của báo chí Thành phố
trong một thập kỉ qua. Bài viết này tập trung phân tích những đặc điểm chủ yếu về tình
hình kinh tế – xã hội Thành phố giai đoạn 2006-2016 trên hai bình diện: một là điều kiện
kinh tế và đời sống vật chất, hai là kết cấu dân cư và đặc tính văn hóa. Đó là những yếu tố
đóng vai trò nền tảng, tạo đà cho sự phát triển của nền báo chí Thành phố thời gian qua
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của kinh tế, dân cư và văn hóa đến hoạt động của báo chí ở thành phố Hồ Chí Minh
hóa giữa các nước, trong đó có sự giao lưu, học tập để phát triển báo chí Thành phố. 3.2. Kết cấu dân cư và đặc tính văn hóa Thành phố bước vào thập niên đầu của thế kỉ XXI với nhiều sự thay đổi trong kết cấu dân cư xã hội. Nhân tố ảnh hưởng trực tiếp nhất đến sự thay đổi đó là quá trình đô thị hóa đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ từ những thập niên trước. Thành phố là nơi có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất và quy mô lớn nhất cả nước. Việc khẳng định Thành phố là địa phương có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất cả nước xuất phát từ nhiều lý do. Trước hết, Thành phố là địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) khá cao, năm 2015 tăng 7,72% (Ủy ban Nhân dân, 2016). Kinh tế phát triển dẫn đến nhu cầu lao động gia tăng, là động lực để thu hút lượng lao động nhập cư từ các địa phương khác. Hơn nữa, Thành phố còn là trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước, năm 2015 khu vực công nghiệp chiếm tỉ Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 3(52)-2021 99 trọng 39,6% trong GDP toàn thành phố (Ủy ban Nhân dân, 2016). Đây là địa phương dẫn đầu cả nước về số lượng và hiệu quả kinh tế của khu công nghiệp, khu chế xuất. Một yếu tố khác dẫn đến việc lượng người nhập cư đến Thành phố tăng còn là do Thành phố cũng đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi về nhà ở cho người thu nhập thấp, như chỉ thị số 07/2003/CTUB ngày 23/4/2003 nhằm hỗ trợ cho người thu nhập thấp có điều kiện vay vốn để tạo lập nhà ở, xây dựng các khu tái định cư ở các quận ven và quận mới để giãn dân từ nội thành ra. Tất cả những yếu tố đó là tác nhân kích thích làm gia tăng số người nhập cư đến Thành phố trong những năm qua. Và điều này cũng góp phần lý giải vì sao quá trình đô thị hóa ở địa phương lại diễn ra ngày một mạnh mẽ. Quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, lượng người nhập cư đến Thành phố ngày một đông khiến cho Thành phố là nơi có sự đa dạng văn hóa cao nhất cả nước. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến năm 2009 ở Thành phố đã có đầy đủ tất cả 54 dân tộc Việt Nam cùng sinh sống. Mọi cư dân ở đây đến từ các vùng miền khác nhau của đất nước, kể cả những người nước ngoài. Tất cả các dân tộc sinh sống ở đây đã tạo nên một nét văn hóa đặc sắc riêng cho Thành phố mà không nơi nào có được. Họ mang đến nơi đây những sự khác biệt về tôn giáo, dân tộc, phong tục tập quán, văn hóa, lối sống, nhưng tất cả đều được tiếp biến, hòa quện vào nhau để cùng hướng đến xây dựng một Thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình. Là một trung tâm về kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ, nên ngoài lực lượng công nhân, nông dân, tiểu thương, Thành phố còn là nơi thu hút một lực lượng lớn trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo từ các địa phương khác đến để định cư, phát triển nghề nghiệp. Theo thống kê năm 2015, lực lượng lao động của Thành phố chỉ chiếm 9% lao động cả nước, nhưng số lượng có trình độ đại học, cao đẳng chiếm đến 21,2% tổng số lao động trình độ cao của cả nước. Trí thức của Thành phố hiện chiếm khoảng 1/5 số trí thức của cả nước, trong đó có trên 15.000 người làm khoa học, hàng nghìn người có học hàm, học vị giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sĩ. Kết cấu dân số giai đoạn này đang đặt ra cho báo chí Thành phố những yêu cầu ngày càng mới và cao hơn so với trước đây. Đây là điều kiện tốt cho báo chí phát triển, nhưng đồng thời cũng tạo những khó khăn, phức tạp và thách thức lớn. Bởi lẽ, đội ngũ trí thức Thành phố với những phẩm chất năng động, sáng tạo, đi đầu, dám chấp nhận thử thách luôn đòi hỏi cao về chất lượng thông tin từ báo chí. Đồng thời, họ còn là những công chúng báo chí luôn tích cực tham gia trao đổi, thảo luận, phản biện những vấn đề của đất nước được báo chí phản ánh, tạo không khí công khai dân chủ, minh bạch thông tin hai chiều góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Đời sống vật chất ngày càng nâng cao làm cho đời sống văn hóa tinh thần và bộ mặt xã hội Thành phố mỗi lúc phát triển theo hướng văn minh và hiện đại. Lối sống văn hóa của cư dân đô thị Thành phố đã được định hình từ những thập niên trước đến nay vẫn tiếp tục được duy trì. Chi phí cho các dịch vụ về ăn uống, đi lại giảm đi, trong khi mức chi cho giáo dục và các hoạt động văn hóa thể thao, giải trí tăng lên. Bên cạnh đó, những điều kiện về hạ tầng kỹ thuật và trình độ dân trí, kết cấu dân cư, thiết chế văn hóa của Thành phố ngày càng được 100 nâng cao. Tất cả những nhân tố này trở thành “bệ đỡ” tạo đà thúc đẩy nền báo chí Thành phố phát triển mạnh mẽ, tiếp tục khẳng định vị thế là nơi khai sinh của nền báo chí Việt Nam. Theo các nghiên cứu gần đây, thời điểm năm 2006 đã xuất hiện rất nhiều các mạng xã hội với những tiện ích nổi trội không chỉ đối với người sử dụng mà còn có tác động rất mạnh mẽ đến quy trình, công nghệ, phương pháp và kỹ thuật làm báo truyền thống. Đó là sự xuất hiện thông dụng của mạng Blog, Yahoo... khiến các cá nhân đều có thể coi như tạo được diễn đàn của riêng mình để kết nối, trao đổi truyền tin. Điều này khiến cho chính trong năm này, các cơ quan báo chí cả nước nói chung và tại TPHCM nói riêng phải chạy đua, thay vì như trước chỉ có thêm báo online song song với tờ báo in giấy, thì nay phải đối diện với thách thức thực sự (không chỉ còn là nguy cơ dự báo như trước) có thêm các hình thức mới nhằm đáp ứng được nhu cầu thông tin của xã hội. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các hình thức báo in giấy truyền thống của các cơ quan báo chí trên địa bàn TPHCM vốn đã hình thành từ trước cho đến thời điểm này, còn thêm sự cạnh tranh của các mạng xã hội được thiết lập từ năm 2006, với hàng loạt các tên tuổi xét trên bình diện báo chí thế giới. Đến thời điểm năm 2016, trong 10 năm đã có độ lùi ở thời điểm này, những tiến bộ và sử dụng tiện ích của mạng xã hội, thói quen sử dụng thiết bị di động ngày càng hiện đại cập nhật thông tin từng giờ từng phút, nhất là khi đã có hàng chục triệu người coi mạng xã hội Facebook là phương tiện không thể thiếu, lại có thể dùng miễn phí trên mạng toàn cầu Viber thì có thể nói như một nhà nghiên cứu: mỗi người đều có thể là nhà báo, có quyền phát ngôn và chia sẻ cũng như nhận được tương tác với hàng triệu người. Trong thời đại công nghệ số phát triển như vũ bão, thói quen đọc, nghe, xem của con người cũng thay đổi với sự xuất hiện của những chiếc smartphone, iphone, ipad cầm tay, thay cho những tờ báo, những chiếc radio, những chiếc ti vi truyền thống. Thực tế cho thấy, nếu một tòa soạn chỉ có báo in, truyền hình hay báo mạng vẫn chưa đủ, mà cần có các phiên bản cho máy tính bảng, điện thoại di động theo thiết kế chuyển đổi linh hoạt. Đây là xu hướng mới của báo chí hiện nay. Với đặc thù nhỏ gọn, tích hợp nhiều trình duyệt khác nhau, phiên bản dành cho smartphone (điện thoại thông minh) đã trở thành loại hình báo chí phát triển với tốc độ chóng mặt. Vì thế, đọc báo trên điện thoại thông minh đang dần trở thành thói quen của phần lớn công chúng báo chí Thành phố. Trước những hệ thống mạng mở, ra đời ngày càng nhiều, cho phép người dùng chia sẻ thông tin và dễ dàng tiếp cận, các hình thức chuyển tải thông tin chính thống sẽ trở nên lạc hậu, chậm tiếp cận với thông tin hơn. Độ trễ về thời gian và tuổi thọ thông tin ngắn ngủi là sức ép để không ít các cơ quan báo chí, nhất là báo điện tử và trang tin điện tử sử dụng bừa bãi những nguồn tin không chính thống dẫn đến sự sai phạm và gây ảnh hưởng xấu đến xã hội. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh và nên coi như yếu tố truyền thống, một trong những đặc điểm văn hóa nổi bật của người dân Thành phố là thói quen mua báo và đọc báo vẫn duy trì. Họ coi báo chí là món ăn tinh thần không thể thiếu trong nhu cầu văn hóa. Mặc dù đã bước sang kỷ nguyên công nghệ hóa, song vẫn còn gặp trên đường phố những công nhân viên chức, người đạp xích lô, người hớt tóc ven đường vừa uống cà phê vừa đọc báo trên điện thoại thay vì cầm tờ báo giấy như trước. Thói quen đọc báo của cư dân Thành phố trở thành nếp sinh hoạt đời thường ngay cả đối với những người lao động bình dân. Từ năm 2016 Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 3(52)-2021 101 ngược về trước, thói quen mua báo và đọc báo của cư dân Thành phố đã tạo tính đa dạng và cạnh tranh khốc liệt, thúc đẩy sự phát triển cho thị trường báo chí Thành phố những năm qua. Cho đến bây giờ, người đọc báo báo giấy dù đã ít đi rất nhiều so với trước, nhưng vẫn đang hiện diện trong đời sống như một minh chứng cho sức sống của một giá trị văn hóa. Còn rất nhiều người dân Thành phố vẫn giữ cho mình thói quen cầm một tờ báo mới in và thưởng thức thông tin, cũng như những cảm giác riêng có rất đặc biệt mà báo mạng không thể có. Đó là cảm giác được “sống chậm”, được nghiền ngẫm và suy tưởng để nhìn chính mình rõ hơn. Thêm vào đó, với một số người đọc, trước những thông tin ào ạt và thiếu chọn lọc, cũng như độ chính xác (một mặt trái của ưu điểm “nhanh”) trên những trang báo mạng, thì một tờ báo giấy có uy tín sẽ là lựa chọn hàng đầu của công chúng báo chí. Thay vì chạy theo thông tin thời sự như báo mạng, những tờ báo giấy có thể chọn cách phân tích chuyên sâu những vấn đề thời sự, lý giải ngọn nguồn những vấn đề công chúng báo chí quan tâm, đó là điều kiện để một số báo chí duy trì lượng độc giả tương đối ổn định của mình. Ngoài khía cạnh là kênh cung cấp các chương trình văn hóa, giải trí, cung cấp tin tức, thời sự, nâng cao hiểu biết, các phương tiện truyền thông đại chúng còn là chỗ dựa cho người dân Thành phố. Chính vì thế hầu hết các tờ báo đều mở diễn đàn để công chúng tham gia đóng góp ý kiến, trao đổi, thảo luận các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước và thành phố. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng đối với khu vực đô thị như TPHCM với các sự kiện xã hội diễn ra hết sức sôi động đến mức khiến người dân mỗi ngày không đọc báo sẽ trở nên lạc hậu (Trần Hữu Quang, 2006, tr.34). Mặc dù trước sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông đại chúng, trước sự cạnh tranh khốc liệt của phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử; nhưng báo giấy là loại hình truyền thông đại chúng mang tính truyền thống và thói quen đọc báo in giấy vẫn là nét sinh hoạt trong nếp sống của người dân Thành phố. Nếu như năm 2000, TPHCM có 31 đơn vị báo in thì đến tháng 6/2010, thành phố có 39 cơ quan báo in giấy gồm 18 báo và 21 tạp chí. Điều đó chứng tỏ, đến thời điểm khảo sát, báo in giấy tại Thành phố vẫn được sự đón nhận của công chúng báo chí. Một điều cần nhấn mạnh nữa, nếu như chúng ta thấy báo chí Thành phố làm được những điều vẻ vang, vinh dự và những gương mặt báo chí đóng đinh tên tuổi của mình ở những tờ báo đình đám nhất của hơn 30 năm là còn bởi họ đã có một công chúng báo chí sôi nổi, tích cực. Đó là những bạn đọc trung thành, sáng suốt nhạy bén, chỉ cho những tờ báo yêu thích những điều mình cần phải làm. Chính người dân Thành phố, với những đặc tính đã phân tích, đã góp phần làm nên phong cách riêng biệt và thành tựu mà báo chí hiếm nơi nào có được. 4. Kết luận Như vậy, với những chủ trương, hướng đi đúng đắn và cách làm năng động, sáng tạo, trong những năm 2006-2016 Thành phố đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn 102 diện, tạo ra sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, trở thành một đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước. Những thành tựu đạt được trong tăng trưởng kinh tế đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, nâng cao mức hưởng thụ của người dân Thành phố trên các phương diện về văn hóa, giải trí. Điều đó mang đến những thời cơ, thuận lợi và cả khó khăn, thách thức cho nền báo chí Thành phố nói chung và đội ngũ những người làm báo nói riêng. Báo chí Thành phố cần phải khẳng định và đề cao hơn nữa bản chất cốt lõi nghề nghiệp: đó là sự đưa tin chính xác, trung thực. Tính chính xác, khách quan, trung thực, nhạy bén trong quá trình chuyển tải thông tin đến những công chúng báo chí không chỉ là trách nhiệm xã hội, mà còn là lẽ sống của người làm báo và các cơ quan báo chí TPHCM. Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt với mạng xã hội như hiện nay, cách thức tiếp cận thông tin báo chí của người dân Thành phố đã có sự thay đổi so với những thập niên trước. Bên cạnh những công chúng báo chí vẫn giữ sự trung thành của mình với tờ báo giấy, đã xuất hiện thói quen đọc báo trên những thiết bị di động. Với các phương tiện di động thông minh, con người hưởng thụ thông tin ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào và bằng nhiều giác quan của mình. Đó là một thực tế mà các cơ quan báo chí phải nhìn nhận và đối mặt. Đây cũng là thách thức chung của báo in trên cả nước, không chỉ riêng TPHCM. Điều quan trọng là phải luôn đặt công chúng là ưu tiên số một, cho dù làm báo trên nền tảng hay bất cứ phương thức nào. Đó cũng là phương thức duy nhất để báo giấy luôn có vị trí trong lòng công chúng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Thị Trường Giang (2014). Báo mạng điện tử những vấn đề cơ bản. NXB. Chính trị Quốc gia. [2] Nguyễn Thị Trường Giang (2018). Xu hướng phát triển của báo chí trong kỷ nguyên kĩ thuật số. [3] Học viện Cán bộ TPHCM (2017). Môn học về Thành phố Hồ Chí Minh. NXB Tổng hợp TPHCM. [4] Dương Hồng Lâm (2017). Để thành phố Hồ Chí Minh phát triển nhanh, bền vững. Báo Nhân dân. https://nhandan.com.vn/tin-tuc-xa-hoi/de-tp-ho-chi-minh-phat-trien-nhanh-ben-vung-308530. [5] Dương Kiều Linh (2017). Báo chí thành phố Hồ Chí Minh trong 20 năm đầu đổi mới (1986-2006). NXB Đại học Quốc gia TPHCM. [6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc gia. [7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X. NXB Chính trị Quốc gia. [8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc gia. [9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia. Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 3(52)-2021 103 [10] Trần Hữu Quang (2006). Xã hội học báo chí. NXB Trẻ. [11] Thành ủy TPHCM (2015). Những vấn đề chủ yếu của Văn kiện Đại hội Đảng bộ TPHCM lần thứ X nhiệm kỳ 2015-2020. NXB Tổng hợp TPHCM. [12] Thành ủy TPHCM (2010). Báo cáo chính trị đại hội đại biểu Đảng bộ TPHCM lần thứ IX nhiệm kỳ 2010-2015. Thành ủy TPHCM. [13] Tạ Ngọc Tấn (2002). Báo chí và một số vấn đề khoa học thực tiễn. NXB. Chính trị Quốc gia. [14] Ủy ban Nhân dân TPHCM (2015). Báo cáo ết quả thực hiện kế hoạch kinh tế – xã hội, ngân sách năm (20 -20 ), phương hướng, m c tiêu, nhiệm v , giải pháp năm (20 6-2020), ngày 12/08/2015. Ủy ban Nhân dân TPHCM. [15] Ủy ban Nhân dân TPHCM (2016). Báo cáo 06/BC-UBND về tình hình kinh tế – văn hóa – xã hội, ngân sách, quốc phòng an ninh năm 20 , m c tiêu, nhiệm v , giải pháp năm 20 6, ngày 08/01/2016. Ủy ban Nhân dân TPHCM. [16] Viện Nghiên cứu Phát triển TPHCM (2008). Đô thị hóa ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh từ góc nhìn lịch sử văn hóa. NXB Tổng hợp TPHCM.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_kinh_te_dan_cu_va_van_hoa_den_hoat_dong_cua_ba.pdf