Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài và các cú sốc kinh tế đến xuất khẩu của Việt Nam
Hơn 30 năm kể từ khi thực hiện cải cách kinh tế thị trường vào năm 1986, Việt Nam đã chuyển
mình từ một quốc gia nằm trong số những nước kém phát triển đã trở thành một trong những nền
kinh tế phát triển nhanh và năng động nhất trên thế giới. Thành công này rõ ràng là nhờ một phần
lớn vào mức độ mở cửa kinh tế cao của Việt Nam dựa trên thương mại và đầu tư quốc tế. Xuất
khẩu của Việt Nam đã phát triển vượt bậc và trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Song hành với xuất khẩu là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở thành bộ
phận không thể thiếu đóng góp đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên,
do tính mở cao của nền kinh tế, xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào dòng vốn FDI
được coi là một vấn đề tiềm ẩn rủi ro đối với đất nước đặc biệt khi có các tác động từ các cú sốc
bên ngoài có tầm ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu. Bài nghiên cứu dưới đây tập trung vào phân
tích thực trạng thu hút FDI và xuất khẩu của Việt Nam, từ đó sử dụng mô hình hồi quy hỗn hợp để
đánh giá ảnh hưởng của FDI và các cú sốc kinh tế đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài và các cú sốc kinh tế đến xuất khẩu của Việt Nam
. Năm 2012, do ảnh hưởng của suy thoái châu Âu, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 18.2% nhưng so với tương quan của năm 2010 (26.5%), tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của năm 2012 chưa phải là đóng góp đáng kể. Đồng thời, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt thấp nhất trong giai đoạn này 5.25%. Bước sang năm 2020, kinh tế Việt Nam đối mặt với cú sốc được đánh giá là lớn nhất từ trước đến nay. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Kissinger cho rằng: “Đại dịch COVID-19 sẽ làm thay đổi trật tự thế giới”. Theo IMF, COVID-19 là cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai trở lại đây. Mức độ nghiêm trọng đã vượt xa khủng hoảng tài chính 2008, thậm chí vượt cả Đại suy thoái ở Mỹ vào những năm 1930. Đại dịch COVID-19 đã tác động nghiêm trọng đến toàn cầu, đẩy hầu hết các nền kinh tế lớn của thế giới lâm vào tình trạng suy thoái. Kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động rất mạnh do độ mở cao, phụ thuộc lớn vào hoạt động xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Thương mại cũng có những ảnh hưởng nghiêm trọng trong xuất nhập khi các bạn hàng lớn hiện nay của Việt Nam là Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản, ASEAN, Trung Đông và châu Phi có sức mua giảm sút. Đầu vào sản xuất như máy móc, thiết bị, phân bón, thức ăn chăn nuôi Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc và EU và cũng chịu ảnh hưởng hoặc gián đoạn. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều rủi ro, bất ổn, thương mại toàn cầu giảm sút, xuất khẩu của các nước trong khu vực đều giảm so với năm trước, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khả quan trong năm 2020. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 78,2 tỷ USD, giảm 1,1%, chiếm 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 203,3 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 72,2% (tỷ trọng tăng 2,1 điểm phần trăm so với năm trước). Cán cân thương mại hàng hóa năm 2020 ước tính xuất siêu 19,1 tỷ USD, giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay. Xét chung toàn giai đoạn 2006 - 2020, cán cân thương mại của Việt Nam đều thâm hụt lớn trong hai cú sốc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009 và đại dịch COVID-19 năm 2020. Việc xuất siêu chủ yếu ở khối FDI cho thấy, sự tăng giảm của nhóm này là yếu tố quyết định chủ yếu đến cán cân thương mại của Việt Nam. Điều này tạo ra tính bất ổn đối với việc xuất khẩu do sản xuất và xuất hàng đi của khối FDI phụ thuộc rất mạnh vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Mỗi khi có biến động xảy ra với chuỗi cung ứng, ví dụ như chiến tranh thương mại, hay COVID-19 diễn ra trên toàn cầu, xuất khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh hơn. Hơn nữa, bản chất của việc doanh nghiệp FDI xuất siêu nhiều sẽ không mang lại nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Điều này xuất phát từ việc các doanh nghiệp FDI xuất khẩu nhiều thì cũng nhập nguyên liệu đầu vào từ các nước khác, không phải ở Việt Nam, kéo theo giá trị gia tăng trong nước không cao. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 582 Hình 3. Xuất siêu, nhập siêu và cán cân thương mại giai đoạn 2006 - 2020 Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê Nhìn sâu hơn có thể thấy xuất khẩu cơ bản dựa vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế trong nước hầu như bị chèn lấn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vẫn chủ yếu xuất phát từ khu vực doanh nghiệp FDI, với tỷ trọng hơn 70% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước. Cụ thể, tỷ trọng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước và FDI đã đổi chiều trong giai đoạn 2006 - 2020. Vào năm 2006, tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước chiếm 42% và doanh nghiệp FDI chiếm 58% đến năm 2015 tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước giảm mạnh còn 29% trong khi tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng 71% và đạt đỉnh cao 73% vào năm 2017. Kết thúc năm 2019, hai con số lần lượt là 32% và 68%. Kết quả trên dễ thấy sự chênh lệch về quy mô và sức ảnh hưởng đối với xuất khẩu của nhóm doanh nghiệp FDI trong nền kinh tế đang rất lớn. Xuất khẩu của Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào các doanh nghiệp FDI, đóng góp của doanh nghiệp nội ngày càng mờ nhạt. Nguồn vốn FDI cũng đóng vai trò như là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Mức đóng góp của khu vực FDI trong GDP của cả nước tăng từ hơn 16% năm 2006 lên hơn 20% năm 2020 (Hình 4). Hình 4. Tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp FDI và đóng góp của FDI trong GDP Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 583 Để làm rõ tác động của các cú sốc kinh tế và FDI lên kim ngạch xuất khẩu của một nền kinh tế nhỏ có độ mở lớn như Việt Nam, chúng ta tiếp tục phân tích kết quả của mô hình hồi quy đa biến, với bộ số liệu thu thập trong giai đoạn 2006 - 2020. 3.3. Kết quả phân tích hồi quy 3.3.1. Kết quả hồi quy Mô hình được ước lượng bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất, các phân tích được thực hiện trên phần mềm EVIEWS 8 và thu được kết quả: Bảng 2. Kết quả ước lượng mô hình Các biến Hệ số ước lượng Log(FDI t ) 1.314835*** Z 1t -0.567596*** Z 2t 0.123229 Z 3t -0.295133 * p < 0,1;** p < 0,05;*** p < 0,01 Nguồn: Kết quả phân tích số liệu của nhóm tác giả Bảng 2 cho thấy, trong 4 biến đưa vào mô hình có 2 biến là vốn FDI và cú sốc năm 2008 - 2009 có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa cao, p-giá trị đều thấp hơn 0,01. Kết quả của mô hình chỉ ra vốn FDI có tác động tích cực đến sự thay đổi của kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Nếu vốn FDI tăng lên 1% một năm thì kim ngạch xuất khẩu trung bình của Việt Nam một năm tăng lên khoảng 1.314835%. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy, trong 3 cú sốc kinh tế lớn, cú sốc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (2008 - 2009) có tác động xấu tới sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Với cùng một mức vốn FDI, kim ngạch xuất khẩu trung bình của Việt Nam bị giảm đi khoảng 56% khi xảy ra cú sốc kinh tế toàn cầu. Biến giả Z2, Z3 không có ý nghĩa thống kê như vậy suy thoái kinh tế châu Âu, COVID-19 gần như không ảnh hưởng đến tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Điều này có thể được lý giải là phần lớn đối tác xuất khẩu chính của Việt Nam là các thị trường Trung Quốc, Mỹ, Nhật, do đó, cuộc khủng hoảng nội khối ở châu Âu gần như không có ảnh hưởng nhiều đến tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Còn đối với cú sốc đại dịch COVID-19 lại không có tác động đến kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất giải thích cho kết quả này là sự điều hành khéo léo, tỉnh táo và rất kiên quyết của Chính phủ Việt Nam với mục tiêu “vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội” khiến cho hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đứng vững trong sự đứt gãy thương mại quốc tế trên toàn cầu, giữ được đà tăng trưởng và tạo lực kéo quan trọng cho cả nền kinh tế. Bảng 3. Đánh giá độ phù hợp mô hình Hệ số xác định bội R2 0.916807 Thống kê F 27.55065*** * p < 0,1;** p < 0,05;*** p < 0,01 Nguồn: Kết quả phân tích số liệu của nhóm tác giả KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 584 Hệ số xác định bội R2 cao và p-giá trị của F rất nhỏ chứng tỏ mô hình đề xuất phù hợp. Mô hình này cũng cho thấy, vốn FDI và cú sốc khủng hoảng kinh tế năm 2008 - 2009 có thể giải thích lên tới 91.68% sự thay đổi của biến phụ thuộc. Do đó, vốn FDI có đóng góp quan trọng cho sự thay đổi của kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. 3.3.2. Kết quả kiểm định các khuyết tật trong mô hình - Hiện tượng đa cộng tuyến Bảng 4. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập FDI t Z 1t Z 2t Z 3t FDI t 1.000000 - 0.204902 -0.153227 0. 693410 Z 1t - 0.204902 1.000000 -0.104828 -0.104828 Z 2t -0.153227 -0.104828 1.000000 -0.071429 Z 3t 0. 693410 -0.104828 -0.071429 1.000000 Nguồn: Kết quả phân tích số liệu của nhóm tác giả Bảng 4 cho thấy giá trị của các hệ số tương quan cặp giữa các cặp biến độc lập đều thấp hơn 0.8 nên có thể nói, mô hình không có hiện tượng đa cộng tuyến. - Hiện tượng tự tương quan Bảng 5. Kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan Kiểm định χ2 thực nghiệm p_giá trị Breusch – Godfrey 6.726011 0.1511 Nguồn: Kết quả phân tích số liệu của nhóm tác giả Kết quả kiểm định Breusch - Godfrey cho thấy mô hình không có hiện tượng tự tương quan. - Hiện tượng tự phương sai sai số thay đổi Bảng 6. Kết quả kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi Kiểm định χ2 thực nghiệm p_giá trị White 7.679644 0.2625 Nguồn: Kết quả phân tích số liệu của nhóm tác giả Kết quả kiểm định White cho thấy, mô hình không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Các kết quả kiểm định cho thấy, sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất để ước lượng mô hình là phù hợp. 4. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH Từ những kết quả phân tích, nghiên cứu ở trên cho thấy, việc xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào FDI đã tạo ra những lo ngại cho các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia. Đồng thời, cơ cấu kinh tế phụ thuộc nhiều vào nhu cầu từ bên ngoài và năng lực xuất khẩu của khu vực FDI khiến nền kinh tế của Việt Nam dễ bị tổn thương trước các cú sốc mà cụ KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 585 thể là khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009. Vì vậy, Việt Nam nên áp dụng các biện pháp để giảm thiểu các điểm yếu do sự phụ thuộc đó gây ra. Điều này sẽ cho phép Việt Nam tiếp tục hưởng lợi từ đầu tư nước ngoài và mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, đồng thời làm cho nền kinh tế tự chủ hơn và có sức chống chịu tốt hơn trước các cú sốc bên ngoài. Một giải pháp quan trọng mà nhóm nghiên cứu đề xuất là tăng cường năng lực sản xuất và xuất khẩu của các tập đoàn trong nước để họ có thể đóng vai trò lớn hơn trong nền kinh tế. Một biện pháp khác là khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân mở rộng kinh doanh, đặc biệt là vào các lĩnh vực chế tạo và công nghệ cao, để củng cố nền tảng công nghiệp trong nước của Việt Nam. Việc Chính phủ hỗ trợ Vingroup, tập đoàn tư nhân lớn nhất Việt Nam, mở rộng sang các ngành công nghiệp ô tô, điện tử và công nghệ cao là một ví dụ điển hình. Nếu thành công, những “con chim đầu đàn” như vậy sẽ không chỉ thúc đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam mà còn tạo ra nhiều kim ngạch xuất khẩu hơn cho đất nước. Xét cho cùng, các nhà đầu tư nước ngoài có thể đến và đi, chỉ có các doanh nghiệp trong nước luôn ở lại, vì vậy, thành công và cam kết của họ sẽ là chìa khóa cho sự tự cường và thịnh vượng kinh tế lâu dài của Việt Nam. Cuối cùng, các doanh nghiệp Việt Nam cần được khuyến khích và hỗ trợ làm việc với các doanh nghiệp nước ngoài để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là một biện pháp quan trọng vì nó giúp các doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh và đóng vai trò lớn hơn trong nền kinh tế về lâu dài. Các chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài về công nghệ cao và các doanh nghiệp địa phương có thể giúp Việt Nam tận dụng tối đa dòng vốn FDI và tăng cường năng lực sản xuất cũng như xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu cả ba biện pháp trên được thực hiện thành công, nền kinh tế Việt Nam sẽ trở nên bền bỉ hơn và mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và FDI có thể được tuyên bố là thành công. Tuy nhiên, trước mắt, việc Việt Nam quá phụ thuộc vào xuất khẩu và FDI vẫn là một mối quan ngại đối với Chính phủ Việt Nam, đặc biệt là nếu xét các gián đoạn trong thương mại quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch COVID-19 cũng như cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc gây ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Achandi, E.L. (2011), Effect of Foreign Direct Investments on Export Performance in Uganda, Makerere University, Uganda. 2. Athukorala P, Menon J 1995. Developing with Foreign Investment: Malaysia. Australian Economic Review, 28: 9 - 22 3. Bộ Công Thương (2017, 2018, 2019), Báo cáo xuất nhập khẩu. 4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam: Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của Liên Hiệp Quốc về phát triển bền vững (RIO+20), Hà Nội. 5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Kỷ yếu hội nghị. 6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Kỷ yếu hội nghị. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 586 7. Chow, P.C.Y. (1987), Causality between export growth and industrial development: Empirical evidence from the NICs, Journal of Development Economics, Vol. 26. 8. Chiến lược và định hướng chiến lược thu hút FDI thế hệ mới, giai đoạn 2018 - 2030. Truy cập tại trang web: https://dautunuocngoai.gov.vn/ 9. De Gregorio J (2003), The Role of Foreign Direct Investment and National Resources in Economic, Development Working Paper No 196, Central Bank of Chile, Santiago. 10. Dunning J.H. (2002), Theories of foreign direct investment. Multinational Enterprises and the Global Economy, Cheltenham pp. 52 - 76. 11. Dussel, E. (2000), Polarizing Mexico, the Impact of Liberalisation Strategy, (London: Lynne Rienner). 12. Gu, W., Awokuse, T.O. and Yuan, Y. (2008), The Contribution of Foreign Direct Investment to China’s Export Performance: Evidence from Disaggregated Sectors, 2008 Annual Meeting, July 27 - 29, 2008, Orlando, Florida 6453. 13. Khan, Ashfaque H and Najam Saqib (1993), Exports and Economic Growth: The Pakistan Experience, International Economic Journal, 7(3), 53 - 64. 14. Lương Minh Khôi (2020), Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 tới kinh tế thế giới và Việt Nam, Kinh tế và Dự báo, Số 13 (5/2020). 15. Njong, A.M. and Tchakount’e, R. (2011), Investigating the Effects of Foreign Direct Investment on Export Growth in Cameroon, Faculty of Economics and Management, University of Dschang, Cameroon. 16. Ngân hàng Thế giới (7/2020), Trạng thái bình thường mới ở Việt Nam sẽ ra sao? 17. Prassana, N. (2010), Impact of Foreign Direct Investment on Export Performance in India, Department of Economics, Bharathidasan University, India. 18. Sultan, Z.A. (2013), A Causality Relationship between FDI inflows and Export: The Case of India, Department of Management, College of Business Adminstration, Salman Bin Abdulaziz University Alkharj, Kingdom of Saudi Arabia. 19. Tran Toan Thang (2014), Foreign Direct Investment and Survival of Domestic Private Firms in Vietnam, Asian Development Review, Vol.31, no.1, pp.53 - 91. 20. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 ban hành Chiến lược xuất - nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030. 21. Zhang Q, Felmingham B (2001), The Relationship between Inward Direct Foreign Investment and China’s Provincial Export Trade, China Economic Review,12: 82-99.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_va_cac_cu_soc_kinh.pdf