Ẩm thực trong các lễ cúng ngày Tết ở xứ Thanh
Tết Nguyên đán là một lễ tết có từ lâu và đã trở thành truyền thống văn
hóa của người Việt Nam nói chung và người dân xứ Thanh nói riêng. Tục ăn Tết được
hiểu theo nghĩa rộng - tức là không chỉ đề cập đến chuyện ăn uống trong ngày Tết, mà
còn là những ứng xử xã hội, các tục kiêng kỵ, quan niệm, nếp sống theo phong tục đã
được người dân truyền từ đời này qua đời khác. Từ xưa đến nay, các món ăn ngày Tết
thường được phân định theo mục đích sử dụng như: cỗ cúng, cỗ thiết đãi khách khứa và
các món ăn chơi ngày Tết. Cỗ cúng ngày Tết gồm có ba loại: cỗ mặn, cỗ ngọt và mâm
ngũ quả. Theo phong tục Việt Nam, lễ vật dâng cúng ngày Tết được chuẩn bị chu đáo,
cẩn trọng, thể hiện sự hiếu thuận của con cháu đối với tổ tiên. Trong đó quan trọng
nhất là mâm ngũ quả, rồi đến các lễ chính như: lễ cúng tiến ông Táo (23 tháng chạp), lễ
cúng tất niên (chiều 30 Tết), lễ cúng giao thừa (trừ tịch), lễ cúng sáng mồng một Tết, lễ
cúng tiễn ông vãi bà vãi.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ẩm thực trong các lễ cúng ngày Tết ở xứ Thanh
Táo nhận ra nhà của mình khi trở về. Thông thường nêu chỉ là một cây tre nhỏ phạt hết cành trừ ngọn. Vào khoảng lưng chừng, có nơi buộc cành đa lá dứa, có nơi treo ít tờ giấy tiền, vài thoi vàng giấy có màu sắc khác nhau, có nơi không buộc gì cả. Cây nêu thường để vậy cho đến mồng 7 tháng giêng năm sau cũng là thời điểm ông Táo trở về (có khi là mồng 10 mới hạ)” [3, tr.474-475]. Ngày nay, tục trồng cây nêu vẫn còn phổ biến ở địa phương miền núi của Thanh Hóa. Nhiều gia đình chuẩn bị cây nêu rất đẹp, gắn cả đèn màu, vừa là cây tâm linh nhưng cũng vừa là vật trang trí cho khung cảnh ngày Tết, tạo nên khung cảnh ấm áp, rực rỡ, xua tan đi không khí lạnh cuối đông và mong đón xuân mới với những điều may mắn. 3. Lễ cúng tất niên (chiều 30 Tết) Đây là lễ cúng rất quan trọng trong các gia đình xứ Thanh. Trong suốt thời gian từ sau ngày 23 tháng chạp, những người ở xa quê đều đã tranh thủ về quê ăn Tết, hoặc về quê để viếng mộ gia tiên. Đến chiều ba mươi Tết, mọi người sửa soạn cỗ lễ vật để cúng bái tổ tiên ông bà và cúng Thổ công tại gia đình. “Đây chính là lễ cúng tất niên và từ đó đèn nhang phải thắp sáng suốt mấy ngày Tết cho đến khi hóa vàng trên bàn thờ gia tiên. Việc cúng lễ gia tiên được tiến hành đều đặn trong ba ngày Tết. Nhưng cúng bái gia tiên 98 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU được tiến hành trọng thể nhất là chiều ba mươi Tết để mời đón tổ tiên ông bà và những người đã khuất về nhà ăn Tết” [6, tr.70-71]. Cỗ cúng từ chiều 30 Tết phải là cỗ cúng tươm tất, đầy đủ các món ăn đã được gia đình chuẩn bị để ăn trong suốt mấy ngày Tết. Thức ăn thường được dự trữ sẵn, làm sẵn, lúc nào cúng thì dọn và nấu thêm món nóng, hoặc khi nhà có khách thì có thể dọn mâm ngay. Theo TS. Nguyễn Quang Lê, nhìn chung: “Cỗ lễ vật dâng cúng tổ tiên bao gồm: xôi gà, rượu trà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau... Nhiều nhà ở thị thành còn sửa soạn nhiều món nấu nướng cầu kỳ thịnh soạn để dâng cúng tổ tiên ông bà. Sau khi cúng lễ tổ tiên xong thì chủ nhà hạ cỗ xuống cho con cháu vui vẻ, đầm ấm” [6, tr.71]. Lễ vật dâng cúng vào dịp tất niên rất phong phú, tùy vào điều kiện kinh tế của từng gia đình. Mâm cỗ Tết chiều 30 của người xứ Thanh thường có: bánh chưng, bánh dày, xôi, gà luộc, giả cầy, giò lụa, thịt đông, miến xào, canh măng khô, rau xào, dưa hành/dưa món... Có gia đình bày thêm cả cỗ ngọt, các loại chè, bánh như bánh chè lam Phủ Quảng, bánh răng bừa, bánh rán, chè đậu xanh... để dâng cúng tổ tiên. Nhìn chung, trong quan niệm của người Việt Nam nói chung thì dường như tất cả những gì ngon nhất người ta đều để dành đến Tết. Bởi vậy, trong mâm cúng tất niên, tất cả những thức ăn được chuẩn bị cho ngày Tết đều được bày biện lên bàn thờ để tỏ lòng thành kính của con cháu đối với ông bà tổ tiên. Bữa cơm tất niên cũng là bữa cơm có đầy đủ các thành viên trong gia đình cùng tham dự, con cháu ở xa về quê ăn Tết cố gắng sắp xếp thời gian để về kịp trước bữa chiều 30 Tết. Đây là bữa cơm thể hiện sự sum vầy của con cháu trong gia đình cho nên ít khi mời khách. 4. Lễ cúng giao thừa (trừ tịch) Giao thừa là thời khắc chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. “Lễ cúng vào thời điểm hết năm cũ và bắt đầu năm mới âm lịch quen gọi là lễ trừ tịch. Lễ cúng giao thừa vào lúc nửa đêm. Đối tượng thờ cúng lúc này không phải là ông bà mà là một trong 12 vị thần hành khiển, mỗi vị phụ trách một năm can chi (tý hay sửu...) mà giờ phút đó là giờ phút bàn giao” [3, tr.475]. Vì tính chất quan trọng này nên việc biện lễ cúng tế được nhân dân ta chuẩn bị rất chu đáo và thành kính. Ở xứ Thanh, người dân thường đón giao thừa bằng đĩa xôi, gà luộc và cỗ ngọt. Các loại chè đậu xanh, chè kho, bánh răng bừa, bánh rán... được sử dụng phổ biến nhất. Mâm lễ vật này cùng với hương đăng hoa quả oản được bày biện trang trọng ở ngoài sân để các vị thần hành khiển có thể nhanh chóng thụ lễ và ghi nhận tấm lòng thành của gia chủ, từ đó ban ân phúc lộc cho họ vào năm mới. Lễ này có ý nghĩa “tống cựu nghinh tân” (đón vị hành khiển mới, tiễn vị cũ). 99 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU Trước đây, các gia đình ở Thanh Hóa thường nấu bánh chưng vào đêm giao thừa. Vì thế, đêm giao thừa là lúc bận rộn nhất, không khí chuẩn bị đón Tết của các thành viên trong gia đình rất rộn ràng, mỗi người một việc. Tất cả mọi việc phải hoàn tất trước thời khắc chuyển sang năm mới. Đến sáng mồng một, mọi người chỉ đón Tết, đi chúc Tết, ăn Tết, chơi Tết mà không phải lo lắng về những việc quanh năm suốt tháng phải làm. Ở nhiều địa phương của Thanh Hóa, người dân còn làm bánh dày để đón Tết. Bánh dày được dùng cúng lễ trong Tết Nguyên đán của người Kinh, Tết “năm cùng” của người Dao, tục ăn Tết lại của dân làng Thiều (xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc) và lễ hội bánh chưng - bánh dày ở Sầm Sơn... Tục làm bánh dày để dâng cúng tổ tiên vào ngày Tết và lễ hội đã trở thành tập quán tốt đẹp của người quê Thanh. 5. Lễ cúng sáng mồng một Bữa cỗ cúng sáng mồng một Tết là nghi lễ quan trọng, là bữa cỗ đầu tiên của năm mới nên gia đình nào cũng chuẩn bị chu đáo để cầu mong một năm mới ấm no hạnh phúc. Thường thì sau khi biện lễ vật dâng cúng, chủ gia đình khấn lễ tổ tiên xong, mọi người trong nhà lần lượt theo thứ bậc khấn vái trước bàn thờ gia tiên để cầu xin sức khỏe, phúc lộc, học hành tiến bộ... Với những người không thuộc dòng trưởng và không giữ vai trò quan trọng trong dòng họ, tại gia đình có thể chỉ cần biện lễ vật đơn giản là những món ăn sẵn đã chế biến từ trước để dâng cúng tổ tiên. “Sáng ngày mồng một mọi nhà đều làm lễ cúng gia tiên. Lễ phẩm là một mâm cỗ cúng đẹp đẽ ngon lành được chuẩn bị từ trước, các món ăn khác đều làm sẵn không phải nấu như giò các loại, chả, mọc, nem chua, dưa hành... chỉ việc cắt bày biện lên mâm. Bên cạnh cỗ mặn là cỗ chè gồm chè đậu xanh, chè nếp... Và các loại bánh bột như bánh thuẫn (hình quả bòng), bánh xoài, bánh chè lam, bánh in (có những chữ “phúc”, “lộc”, “thọ”), bánh rán tẩm mật, bánh cà (thắng bằng đường sau khi rán bằng mỡ), các loại bánh lá như bánh lọc, bánh trong, bánh gai, bánh mật...” [3, tr.476]. Nhưng đối với các gia đình trưởng tộc, trưởng họ, các chi, nhánh trưởng của dòng họ, phần lớn đều phải chuẩn bị cỗ lễ gồm ba lớp (như đã giới thiệu ở phần đầu bài viết) để dâng cúng tổ tiên. Điều đó thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn và sự thành kính, cẩn trọng của con cháu đối với ông bà tổ tiên. Vào sáng mồng một Tết, sau khi thắp hương cúng lễ tại các gia đình, con cháu của dòng họ thường tập trung ở Từ đường để chiêm bái và cầu mong ông bà tổ tiên phù hộ cho con cháu năm mới được bình an. “Người ta còn chia nhau đi đơm, đi cúng (người cửa thứ đến nhà cửa trưởng, hoặc đến nhà thờ), đi lễ, đi chúc Tết (rể tới nhà nhạc gia, học trò tới nhà thầy...) đã có một lịch dùng vào việc này gần như phổ biến ở nhiều địa phương: mồng một thì ở nhà cha, mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy (hoặc bạn bè)” 100 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU [3, tr.476-477]. Phong tục này là một nét đẹp truyền thống trong ngày Tết, hầu như vẫn còn được duy trì ở các vùng quê Việt Nam. 6. Cúng tiễn ông vải bà vải Theo truyền thống xưa, sau khi mời tổ tiên về ăn Tết với con cháu, đến ngày mồng 2, mồng 3 Tết hoặc ngày khai hạ mồng 7 Tết, là ngày cuối cùng, tiệc xuân đã mãn, con cháu lại cáo lễ để tiễn đưa ông vải bà vải trở về âm cảnh. “Phần lớn các gia đình ở nước ta tổ chức lễ hóa vàng vào ngày mồng ba Tết (ở miền Bắc) hoặc mùng bốn Tết (ở miền Nam). Vào hôm đó, mọi nhà đều nấu cơm, làm cỗ để cúng tiễn tổ tiên ông bà và chấm dứt ngày Tết” [6, tr.73]. Lễ này, dân gian vẫn gọi là lễ cúng tiễn ông bà, lễ hóa vàng cho tổ tiên hay lễ tạ năm mới. Vào lễ này, người xứ Thanh chuẩn bị lễ vật như mâm cỗ cúng trong các ngày Tết. Điểm khác là chủ nhà sẽ biện một mâm ngũ quả mới, chuẩn bị trầu cau, nước lã, rượu và mâm cỗ mặn để cúng lễ. Sau khi cúng lễ, người ta đem hóa số vàng mã đã được cúng lễ trong ba ngày Tết để ông bà tổ tiên nhận lễ vật mang đi. Phần tiền, vàng của gia thần phải hóa trước, tiền, vàng, đồ dùng của tổ tiên hóa sau. “Đối với tư gia, thì coi như hết Tết từ mồng ba, nhà nghèo có khi hết từ mồng một. Nhưng kẻ có của thì còn bày ra lễ cúng hóa vàng, lễ hạ nêu, có nhà lại tiếp tục hội họp anh em chè chén” [3, tr.477-448]. Con cái ở xa thì sau khi làm lễ hóa vàng cho ông bà có thể quay về nhà của mình để chuẩn bị cho công việc của năm mới. Trong quan niệm dân gian, “tối mồng ba có tục đổ lá bánh ở ngã ba đường. Tuy gọi là đổ lá bánh nhưng nhiều nơi còn nghĩ đến những con ma vô chủ bơ vơ không nơi nương tựa. Vì vậy, người ta có đổ theo lá một ít trầu cau, hoa quả, ít tiền giấy hoặc vàng giấy, có khi còn cả một tấm bánh nguyên hay một gói, nhiều ít tùy lòng từ thiện với cô hồn” [3, tr.477]. Hiện nay, tục đổ lá bánh không còn được duy trì, nhưng các gia đình ở miền Bắc vẫn biện lễ cúng cô hồn, những vong linh không nơi nương tựa, như là một việc làm thiện nghĩa đối với người cõi âm. Lễ vật ngoài hương vàng, trầu cau, bánh kẹo, còn có gạo, muối, bỏng nổ... Sau khi thắp hương, hóa vàng, người ta rắc gạo, muối, bỏng nổ... ra ngoài cổng ngõ để các vong hồn cô quả nhận được lễ vật mà chủ nhà ban phát. Ngày mồng bảy là ngày khai hạ cũng là ngày cây nêu được hạ xuống, chấm dứt thời kỳ chầu chực Táo quân vì muộn nhất thì đến ngày đó thế nào các ông cũng quay trở về. Có câu: Khai hạ thì ngã cây nêu. Có nhà cẩn thận hơn kéo dài đến mồng mười mới làm lễ hạ nêu. Những gia đình không trồng cây nêu vẫn bày biện lễ vật lên bàn thờ tổ tiên để cúng lễ. Ngày khai hạ thường là ngày vui chung của dân làng, có thể có rước xách, tế thần Thành hoàng, tổ chức những cuộc vui như vật cù, cờ thẻ, ván đu, thi chạy, thi dọn cỗ... [3, tr.477-448]. Có câu: Mồng ba ăn rốn/Mồng bốn nhịn thèm/Mồng năm 101 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU ăn nem/ Mồng sáu ăn chả/ Mồng bảy khai hạ/ Mồng tám vật cù/ Mồng chín đánh đu/ Mồng mười nêu hạ. Như vậy, đối với người Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng, ngày mồng ba Tết là hết các lễ cúng tổ tiên, ngày mồng bảy sau khi làm lễ đón Táo quân thì hạ nêu hết Tết. Cũng trong những ngày Tết, anh em, bạn bè xa gần mới có dịp đến nhà chúc Tết, chia sẻ, thăm hỏi lẫn nhau. Và chủ nhà thường chuẩn bị một số món ăn, thức uống để thiết đãi khách khứa đến chúc Tết và vui xuân mới. Trong tất cả các món ăn Tết, ở Thanh Hóa không thể thiếu món nem chua. Ngày thường, nem chua được làm dạng hình vuông nhỏ hoặc hình thỏi chữ nhật. Nhưng đến ngày lễ Tết hoặc cưới hỏi, người dân Thọ Xuân và Nga Sơn thường làm nem thính (có nơi gọi là nem quả) để ăn Tết. Đây là loại nem đặc biệt, thịt được thái miếng vừa ăn, trộn với bì lợn thái sợi nhỏ, thính gạo, tỏi và ớt, lá ổi và lá đinh lăng, gói vuông vắn và để lên men chua. Khi ăn, quả nem được bóc ra trộn với thính gạo rang thơm, xé tơi ra đĩa. Ngày nay, người xứ Thanh còn sáng tạo ra cách ăn nem nướng, dùng quả nem vùi trong tro bếp nóng, khi có mùi thơm thì bóc lớp lá chuối gói ngoài vỏ nem, xé tơi quả nem ra đĩa, rắc thính lên trên ăn cùng với các loại lộc sung, lá đinh lăng... rất hấp dẫn. Dù cả năm có làm lụng vất vả, túng thiếu, thì đến Tết, người quê Thanh vẫn dành những món ăn ngon nhất để chuẩn bị đón mừng năm mới. Niềm vui trong bữa ăn ngày Tết, sự chia sẻ các món ăn thể hiện sự cộng cảm, cộng mệnh, sự sum vầy, đoàn tụ gia đình và bè bạn. Như vậy, với việc chuẩn bị sẵn nhiều món ăn trong dịp Tết, mọi người trong gia đình đều được hưởng không khí của lễ hội, được ăn Tết, chơi Tết và có thời gian để ôn lại những thành quả lao động và những khó khăn, vất vả trong một năm qua. Âm thực ngày Tết ở xứ Thanh bởi thế đã bao chứa trong đó toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của người dân Thanh Hóa xưa và nay. Và vì vậy, nâng cao giá trị ẩm thực ngày Tết xứ Thanh chính là góp phần phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của quê hương xứ Thanh. CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] . Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội [2] . Sông Lam Châu (2008), Sản vật Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. [3] . Nguyễn Đổng Chi (1995), Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh, Nxb Nghệ An. [4] . Lê Quý Đôn (2006), Vân Đài loại ngữ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 102 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU [5] . Nguyễn Xuân Kính (2013), Con người, môi trường và văn hóa, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [6] . Nguyễn Quang Lê (2003), Văn hóa ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [7] . Võ Thúc Loan, Nguyễn Hữu Ngôn (2009), Văn hóa ẩm thực xứ Thanh, Nxb Thanh Hóa. [8] . Ngũ bao gồm rất nhiều từ ghép: ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), ngũ phương (đông, tây, nam, bắc, trung tâm), ngũ giới (là 5 điều răn của đạo Phật: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không dùng chất gây nghiện), ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín), ngũ luân (là 5 mối quan hệ trong xã hội: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bè - bạn), ngũ phúc lâm môn (phú, quý, thọ, khang, ninh), ngũ cốc (theo Lê Quý Đôn trong “Vân Đài loại ngữ’ thì ngũ cốc gồm: ma - vừng, thử - gạo nếp, tắc - gạo tẻ, mạch - lúa mì, đậu - đậu các loại)...]. [9] . Người miền Nam thường dâng cúng các loại trái cây như: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung, thơm, dưa hấu đỏ... để mong được no đủ, sung sướng, may mắn, “cầu - vừa - đủ - xài - sung” trong năm mới. Người miền Nam không dùng chuối để thờ bởi vì theo họ, “chuối” đọc chệch thành “chúi”, đầu năm mà thờ chuối thì cả năm không ngóc đầu lên nổi hay không thờ cam, quýt vì sợ “quýt làm cam chịu”... [10] . Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Đại Nam nhất thống chí (tập 2), Nxb Thuận Hóa, Huế, 2006. [11] . Lê Trung Vũ (chủ biên), Tết cổ truyền người Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. CUISINE IN THE WORSHIPPING CEREMONIES OF THE LUNAR NEW YEAR IN THANH LAND Assoc.Prof. Dr.Tran Van Thuc Vo Thi Hoai Thuong, M.A Abstract: The Lunar New Year is a long standing festival which has become the traditional culture of Vietnamese people in general and of local people in Thanh land in particular. In a broad sense, customs for Tet refer to not only cuisine but also social interactions, taboos and customs that have been transmitted from generation to 103 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU generation. From the past to the present, Tet dishes usually assigned by use purpose as: dishes of worship, dishes for guests and dishes for the Lunar New Year. A dish of worship includes three categories: hearty dishes, simple dishes and fruit tray. According to the customs of Vietnam, worshipping offerings are carefully prepared to express filial piety of descendants to ancestors. The most important offering is a fruit tray. The next necessaries are the rite of Tao Quan (Kitchen God) off, the rite to say goodbye to the old year, the rite to welcome the New year in New Year Eve, the rite in the first day of the new year, the rite to see off ancestral souls to return to the other world... 104
File đính kèm:
- am_thuc_trong_cac_le_cung_ngay_tet_o_xu_thanh.pdf