Về tư tưởng đạo đức của Nho sĩ Duy Tân Việt Nam đầu thế kỷ XX
Đầu thế kỷ XX, những nho sĩ Việt
Nam đã trưởng thành trong thời
đoạn này như Nguyễn Thượng Hiền,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ, Đặng
Kinh Luân, Dương Bá Trạc, Lê Đại, Võ
Hoành, Phan Đình Đối, Phan Huy
Thịnh, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Tăng
Bí, Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thái Thân,
Nguyễn Hàm. là những trí thức đã
thoát khỏi khoa cử hoặc thi đỗ nhưng đã
tự thoát khỏi hệ thống quan liêu phong
kiến để bảo tồn vị trí và vai trò của kẻ sĩ
trong xã hội. Họ tiến hành công cuộc
duy tân trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội Việt Nam, coi đó như những bước
khởi đầu cần thiết để có một Việt Nam
độc lập, giàu mạnh.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Về tư tưởng đạo đức của Nho sĩ Duy Tân Việt Nam đầu thế kỷ XX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Về tư tưởng đạo đức của Nho sĩ Duy Tân Việt Nam đầu thế kỷ XX
vua chuyên chế làm sai đạo Khổng Mạnh. Nền luân lý quốc gia, luân lý xã hội thì tuyệt nhiên không có. Ông nhận xét: “Phong tục ta còn giữ lại đ−ợc là chỉ còn có gia đình luân lý mà thôi, còn ra từ triều đình cho chí h−ơng thôn, là bởi mình đi lầm lạc hết cả” (Phan Chu Trinh, 1995, tr.711). Trên thực tế xã hội bấy giờ, cả năm quan hệ trong ngũ luân đều đang bị suy vi, trong tình trạng vua tôi thì lạt nh− n−ớc lã, đục nh− vôi, cha con thì làm cho mất cả tấm lòng son, anh em trắt tréo thây to n−ớc lạnh tanh, vợ chồng thì tiền tài ngày nặng, ân tình bạc, bạn bè thì th−ơng ôi luân ấy mất đã lâu. Khi chính thể quân chủ phong kiến không còn nữa, thay vào đó là chính thể dân chủ, quan hệ giữa con ng−ời trong xã hội cũng thay đổi nh−ng nếu có nh− vậy thì trong ngũ luân chỉ có quan hệ vua - tôi là không còn, các quan hệ cha - con, anh - em, vợ - chồng, bạn - bè vẫn tiếp tục cần đ−ợc giữ đạo, phát huy. Nho sĩ kiên trì gìn giữ chuẩn mực của những mối quan hệ đó. Họ biết rằng muốn khôi phục lại nền đạo đức của một đất n−ớc không còn chủ quyền, độc lập nh− n−ớc Việt Nam không phải là một việc dễ nh−ng không thể không làm ngay. Họ đặt ra ph−ơng thức để suy nghĩ và hành động nhằm chấn h−ng nền đạo đức, sửa đổi luân lý n−ớc nhà. Đó là, giữ một ít đạo đức của truyền thống, thu nạp một ít đạo đức của Âu châu đem điều hòa lại rồi khuyếch tr−ơng, nghĩa là khiến dân Việt Nam ai cũng biết nghĩa vụ đối với n−ớc Việt Nam. Từ đó n−ớc Việt Nam giàu mạnh, sẽ đ−ợc các dân tộc khác kính nể. Nho sĩ về cơ bản thống nhất ph−ơng châm kết hợp, hòa hợp Đông - Tây, Cổ - Kim trong xây dựng luân lý, đạo đức mới, “đem cái văn minh Âu Tây hòa hợp với các chân Nho giáo ở á Đông chứ không phải là tự do độc lập ở đầu l−ỡi của mấy anh tây học lem nhem mà cũng không phải là quốc hồn quốc túy ngoài môi của các bác Hán học dở mùa đâu” (Phan Chu Trinh, 1995, tr.784). Trong quá trình tiếp thu, biến đổi và xây dựng, phát triển luân lý, đạo đức, nguyên tắc không thay đổi là phải Về t− t−ởng đạo đức 35 chú ý chọn lọc những yếu tố có giá trị, phù hợp với luân lý và đạo đức á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. 1. Đổi mới nội dung các phạm trù đạo đức Phạm trù đạo đức đ−ợc nho sĩ bàn nhiều là “trung” và “hiếu”. Họ thảo luận về con đ−ờng để có thể làm tròn cả trung và hiếu. Cái mới trong nội dung của “trung hiếu” chính là: mục đích cuối cùng của trung hiếu là phụng sự dân tộc, thực hiện trách nhiệm xã hội cao cả, phải thể hiện hy sinh vì quốc gia, dân tộc trong lúc dân tộc đang gặp nan nguy. L−ơng Văn Can đã khuyến tài: “áo cơm lộc n−ớc đã bao lâu, Một tấm lòng trung trả nghĩa sâu. M−a gió giữ gìn bền chí mãi, Non sông gánh vác ghé vai vào” (Ch−ơng Thâu, 1996, tập 21, tr.613). “Trung” trở thành “đạo th−ơng n−ớc”, là tính tự nhiên trời phú cho ng−ời Việt Nam, quốc gia luân lý phải in sâu vào trí não mỗi ng−ời con dân n−ớc Việt. Muốn cho n−ớc Việt Nam đ−ợc độc lập, tự do thì nhân dân Việt Nam phải xây dựng tính xã hội cho mình, phải có đoàn thể, có tính công lợi, biết giữ lợi chung. “Hiếu” không chỉ với cha mẹ, gia tộc mình, mở rộng ra hiếu với tổ tiên, với dân tộc. Thực hiện đạo hiếu đồng nghĩa với tham gia giải phóng dân tộc, quyết chí bảo vệ n−ớc, giành độc lập dân tộc. Nho sĩ cố gắng làm mới nội dung của phạm trù “nhân”, vốn là một phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo, giải thích phạm trù nhân thấu đáo. Cũng nh− bao nhà nho, Phan Bội Châu cho rằng nhân có sức mạnh vô song trong mọi lĩnh vực. “Vô luận ng−ời nào, chốn nào, thì nào, tất thảy dùng một chữ “nhân” mà ứng phó đ−ợc cả” (Phan Bội Châu, 1990, tập 9, tr.41). “Ngoài chữ ‘nhân’ ra không ai có đạo lý gì khác. Tức nh− đại từ, đại bi, chúng sinh bình đẳng của Phật Thích Ca, nghĩa yêu ng−ời nh− mình, xem thù nh− bạn của đức chúa Dê Du cũng chỉ là ý nghĩa chữ Nhân mà thôi” (Phan Bội Châu, 1990, tập 9, tr.41). Trên tinh thần duy tân nh−ng vẫn không tránh khỏi quan điểm “nhất thống nho gia”, nho sĩ vẫn giải thích các phạm trù đạo đức của các học thuyết, tôn giáo khác xoay quanh phạm trù “nhân” của Nho giáo. Tuy nhiên, tiêu chí tối cao của “nhân” trong thời đại mới là yêu n−ớc, là làm cho n−ớc giàu mạnh. Muốn nh− vậy thì tr−ớc hết phải có lòng bác ái. Bác ái sẽ dẫn tới giải phóng con ng−ời. “Nhân nghĩa là chí công vô t−, mà lại kiêm cả bác ái” (Phan Bội Châu, 1990, tập 7, tr.75). Nho sĩ thấu hiểu đạo “nghĩa”. Nghĩa là những gì hợp với đạo lý con ng−ời phải làm. Đạo lý thời nay, theo các ông là phấn đấu cho lý t−ởng tự do - độc lập, thực hiện nghĩa vụ giải phóng dân tộc, đất n−ớc có chủ quyền thì dân mới có quyền lợi. Nghĩa và lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc là không tách rời. Trong các mối quan hệ cụ thể giữa con ng−ời, các ông vẫn nỗ lực sáng tác các “gia huấn” để thể hiện t− t−ởng của mình về các chuẩn mực và ứng xử đạo đức. Đạo làm cha, làm mẹ, làm con dù ở thời thế nào cũng không thay đổi vì đây là những đạo ứng xử cốt yếu nhất của con ng−ời. Cha mẹ đối với con cái luôn là mực th−ớc méo tròn làm mẫu bởi mình ta, nên luôn phải giữ nếp nhà cho sạch. Con cái là kết quả sự dạy bảo từ cha mẹ, nên cha mẹ phải nhớ khôn dại 36 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2015 đục trong mình chuốc cả, dạy con xin dạy thủa trong thai. Luân lý trong gia đình mà trong sáng thì mới có thể chấn h−ng luân lý cho cả xã hội. T− t−ởng luân lý của nho sĩ duy tân còn chịu nhiều ảnh h−ởng của nền luân lý Nho gia nh−ng không phải là những t− t−ởng giáo điều, cứng nhắc mà là những suy nghĩ sâu sắc, những lời khuyên nhủ chân thành mang đậm tinh thần nhân văn, nhân đạo truyền thống của dân tộc. Về vấn đề lý t−ởng, lẽ sống: lý t−ởng đạo đức của nho sĩ là lý t−ởng tự do, tự do cho đất n−ớc, cho dân tộc, cho đồng bào. Tự do là gắn với quyền con ng−ời, đạt đ−ợc nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống với bản chất l−ơng thiện của mình, trong đó có cả nhu cầu vật chất và tinh thần. Quan niệm đạo đức của nho sĩ đạt tới hoàn thiện khi họ xác định “lẽ sống”. Quan niệm về lẽ sống thể hiện rõ nét quá trình chuyển biến trong t− t−ởng đạo đức, là kết quả của quá trình các ông tiếp biến t− t−ởng Đông - Tây. Họ chấn h−ng các đức tính tốt vốn có của ng−ời dân đất Việt nh− “bài thuốc 10 vị” của Phan Bội Châu “bốc” cho ng−ời Việt: chí khí tự c−ờng, lòng thành thực, gan quả quyết, lòng công ích, thực nghiệp, bụng nhiệt thành, dải đồng tâm, trí thức mới, nội hóa, giống thân ái. Tóm gọn lại, lẽ sống của con ng−ời Việt mới là: Thứ nhất, sống thức tỉnh: con ng−ời tỉnh táo để thấy đ−ợc các nguyên nhân và thực trạng mất n−ớc; có hiểu biết về các lĩnh vực của cuộc sống hiện đại; nhận thức đ−ợc trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân mỗi ng−ời đối với vận mệnh Tổ quốc. Thứ hai, sống có ý chí. ý chí là ý chí dũng cảm, dám đứng lên đảm nhận sự nghiệp cứu n−ớc. Muốn sống có ý chí, con ng−ời phải tự tin: tự tin vào bản thân, tự tin vào t−ơng lai dân tộc, tin vào chủ nghĩa đã đ−ợc chọn. Tự tin mở rộng ra là “tự tín”, “tự nhiệm” theo tinh thần “hào kiệt tự nhiệm” - tự trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, dân tộc. Thứ ba, sống phải tự tân. Tự tân là tự đổi mới. Con ng−ời có thức tỉnh, có tự tin, tự nhiệm thì tất sẽ tự tân. Tự tân tr−ớc hết là tự tân về tri thức, học hỏi tri thức khoa học thời đại, phê phán, sửa đổi những tri thức cũ đã lạc hậu để dần đ−a dân tộc đến tự c−ờng, văn minh. Họ cho rằng, cốt lõi của tự tin, tự tân là ph−ơng pháp t− duy. Họ mạnh dạn đả kích trực tiếp vào lối t− duy cũ của Nho giáo “thuật nhi bất tác”, “hậu cổ hạc kim”, “trọng h− văn, khinh thực nghiệp”. Do vậy, họ yêu cầu con ng−ời mới, chủ yếu là thanh niên phải độc lập suy nghĩ, phát triển phẩm chất t− duy và bản lĩnh con ng−ời, nh− vậy mới có thể thoát khỏi sự lệ thuộc vào n−ớc ngoài, mất n−ớc, mất cốt cách dân tộc và nhân cách bản thân. 2. Đổi mới t− t−ởng về đạo đức của một số đối t−ợng trong xã hội Xuất phát từ quan điểm duy tân xã hội là trách nhiệm của mọi tầng lớp, nho sĩ đầu thế kỷ XX bàn đến luân lý đạo đức của các đối t−ợng trong xã hội, đến đạo đức trong nhiều lĩnh vực. Chúng tôi phân tích t− t−ởng về đạo đức trong một vài đối t−ợng cụ thể, những đối t−ợng này hầu nh− không đ−ợc bàn đến trong hệ thống t− t−ởng đạo đức Nho giáo. Đạo đức tôn giáo: một trong những điểm đặc sắc của nho sĩ đầu thế kỷ XX là họ đã v−ợt qua đ−ợc thái độ kỳ thị để tìm đ−ợc những giá trị về đạo đức nhân sinh trong các tôn giáo đang tồn tại trong xã hội Việt Nam bấy giờ. Phan Bội Châu nhận định, giáo lý Về t− t−ởng đạo đức 37 của nhà Phật không có gì là cao siêu, là xa lạ mà nó đ−ợc chính con ng−ời tạo ra nhằm phục vụ nhu cầu tôn giáo của mình: “Tôn chỉ nhà Phật rất sâu kín, không thể bàn đ−ợc. Nói không mà có khi có; nói có mà có khi không. Bảo không mà không có cái không, bảo có mà lại không có cái có. Tùy các ng−ời muốn nói gì thì cứ theo cái miệng mà nói ra thôi. T− t−ởng tự do mới thật là lẽ nhà Phật” (Phan Bội Châu, 1990, tập 4, tr.78). Theo ông, các tôn giáo đ−ợc hình thành nhằm giải quyết vấn đề tự do của con ng−ời mà thôi. Nó là chỗ dựa để con ng−ời đ−ợc tự do về tinh thần và là động lực để con ng−ời đ−ợc tự do về thể xác. Nh−ng trong mối quan hệ với Trời, Phật, Thánh thần, Phan Bội Châu nâng cao vai trò của con ng−ời, tin vào khả năng tự giải phóng của con ng−ời. Phan Bội Châu đã ca ngợi những giá trị của đạo Cơ Đốc. Đó là tình yêu th−ơng, lòng bác ái, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống tinh thần. Đạo đức doanh nhân: nh− trên chúng tôi đã phân tích, t− t−ởng “trọng nông ức th−ơng” của Nho giáo có nguyên nhân từ cách nhìn nhận vị trí, vai trò hạ đẳng của th−ơng nhân. Nho sĩ thế kỷ XX đã thay đổi t− duy về xã hội, tất yếu họ thay đổi t− t−ởng về doanh nhân. Hơn nữa, theo họ, doanh nhân muốn khẳng định giá trị với xã hội thì họ phải ý thức đ−ợc các chuẩn mực đạo đức của nghề nghiệp. L−ơng Văn Can duy tân t− t−ởng và hành động theo thời cuộc nh−ng ông vẫn giữ khí tiết của nhà nho. Ông giữ quan điểm về con ng−ời đạo đức bất luận ng−ời đó làm nghề gì, trong thời đại nào. Ví nh− trong tác phẩm “Kim cổ cách ngôn”, L−ơng Văn Can bàn về “đạo làm giàu” của ng−ời Việt Nam, đạo làm giàu mang đậm chất nhân văn, nhân đạo, khác biệt với cách làm giàu của t− bản và đế quốc. Nh−: Của cải là sự sống còn của con ng−ời. Vì vậy khi dùng của cải phải xem nguồn gốc của nó có trong sáng không, có hợp nghĩa không. Nguồn của cải trong sáng thì chi tiêu phải có đạo. Bí quyết thành công của nhà kinh doanh là sự trung thực, nghĩa là, nguồn lợi thu về phải theo lẽ tự nhiên, đừng bao giờ vì lợi mà làm điều xằng bậy hoặc phiêu l−u mạo hiểm. Trong kinh doanh nếu chỉ chăm lợi cho mình mà hại ng−ời thì con cháu mạt vận. Đạo trời ban phúc cho ng−ời thiện, trừng phạt kẻ gian tà. Đứng tr−ớc của cải đối với ng−ời đời vẫn phải răn bảo, răn ng−ời lấy của không thuộc quyền mình, răn ng−ời thấy lợi mà quên điều nghĩa. Ng−ời nghèo phải chọn nghề cẩn thận, không vì nghèo mà chứa sòng bạc, không nên vì buôn bán đổi chác mà làm lẫn của giả để lừa ng−ời khác. ... Đạo đức cho nữ giới: nho sĩ không nêu thành hệ thống lý thuyết đạo đức mà thể hiện bằng cách dụng thơ, ca, tục ngữ có sẵn hoặc sáng tác văn thơ nhằm tác động trực tiếp đến các đối t−ợng. Họ sáng tác huấn ca nh− Tỉnh quốc hồn ca, Dạy con... (Phan Chu Trinh), Tân nữ huấn ca (Nguyễn Hữu Cầu), Nữ quốc dân tu tri (Phan Bội Châu), Bài ca cứu quốc (Huỳnh Thúc Kháng)... Ngoài những lời gia huấn, giáo dục lòng yêu n−ớc, yêu giống nòi, họ còn thể hiện t− t−ởng bình đẳng, bình quyền, chuẩn mực tu d−ỡng cho thanh niên thời đại mới và cho phụ nữ, một đối t−ợng vốn bị coi th−ờng trong t− t−ởng Nho giáo phong kiến. Chúng tôi lấy một dẫn chứng từ Tân 38 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2015 nữ huấn ca của Nguyễn Hữu Cầu. Ông kêu gọi phụ nữ hãy tỉnh táo nhận thức về thời đại tôn trọng nữ quyền, phụ nữ cần phải học cái mới trong khi phải giữ đ−ợc cái hay của dân tộc, học đối nhân xử thế trong đó ngoài đối với ng−ời trong nhà còn có chuẩn mực đối xử với đất n−ớc, với nhân dân. Nguyễn Hữu Cầu còn l−u tâm nhắc nhở phụ nữ cả những việc thuộc về “thiên chức” nh− nuôi con, dạy con, chi tiêu, lễ bái không mê tín, chăm thể dục, đặc biệt là trong thời đại mới phụ nữ phải học lấy một nghề m−u sinh... “Cuộc đời gặp buổi giao thông, Nữ quyền hai chữ vang trong hoàn cầu (...)Cốt sao quốc túy bảo tuyền, Trau thêm học mới làm nền duy tân. (...)Nhất là học vấn tinh thông Hai là nghề khéo ở trong tay mình. (...)Muốn cho không yếu không hèn Về phần thân thể phải nghiền vệ sinh (...)Đến nh− lễ bái quỷ thần Dù Gia, dù Thích cốt phần tự tu Chẳng nên mê tín theo đòi Dã man đến thế, thật nòi dã man” (Ch−ơng Thâu, Hồ Anh Hải biên soạn, 2007, tr.226-235). Nguyễn Hữu Cầu đã v−ợt qua đ−ợc luân lý lạc hậu của Nho giáo khi ông khẳng định: “Buổi đầu kén chọn lầm sai, Phải ng−ời cờ bạc dông dài khôn ngăn Hoặc ng−ời vô nghĩa bất nhân Kíp nên kiếm chốn rời chân ngoài vòng. (...)Phải nhà bắt nhặt bắt khoan Quá đ−ờng cay nghiệt sẽ bàn ở riêng (...)Có con đứng vậy nuôi con Hiếm hoi b−ớc nữa ai còn cấm ai” (Ch−ơng Thâu, Hồ Anh Hải biên soạn, 2007, tr.226-235). Có thể nói, quá trình đổi mới t− t−ởng đạo đức của nho sĩ cũng t−ơng ứng với các giai đoạn hoạt động duy tân, hoạt động cách mạng của họ. Dù trong hoàn cảnh nào, thời thế nào, họ vẫn thực sự là một tấm g−ơng sáng về trau dồi, tu d−ỡng đạo đức. Trên nền tảng đạo đức truyền thống, tiếp thu các yếu tố tích cực, tiến bộ của thời đại, nho sĩ đã phát triển hệ thống quan niệm đạo đức, lẽ sống lên một trình độ mới, có nội dung tiến bộ hơn, nền đạo đức có bản chất là chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Đó là lòng yêu n−ớc, th−ơng dân; vạch tội, lên án phong kiến, thực dân; là lý t−ởng giải phóng nhân dân. Nho sĩ có niềm tin vào phẩm giá, sức mạnh của con ng−ời, từ đó họ tập trung thức tỉnh, h−ớng dẫn nhân dân đấu tranh giải phóng, đ−a lại giá trị nhân văn đích thực: độc lập, tự do, bình đẳng, nhân ái. Tuy còn có hạn chế về thời đại và nhận thức của bản thân ch−a v−ợt bỏ đ−ợc thế giới quan Nho giáo, nh−ng t− t−ởng duy tân về đạo đức của các nho sĩ là dấu gạch nối đậm nét để chúng ta xây dựng một nền đạo đức con ng−ời Việt nam mới Tài liệu tham khảo 1. Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, Ch−ơng Thâu s−u tầm, biên soạn, Nxb. Thuận Hoá, Huế. 2. Ch−ơng Thâu, Hồ Anh Hải biên soạn (2007), Nguyễn Hữu Cầu chí sĩ yêu n−ớc Đông Kinh Nghĩa Thục, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 3. Phan Chu Trinh (1995), Tuyển tập, Nguyễn Văn D−ơng biên soạn, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng. 4. Ch−ơng Thâu biên soạn (1996), Tổng tập văn học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
File đính kèm:
- ve_tu_tuong_dao_duc_cua_nho_si_duy_tan_viet_nam_dau_the_ky_x.pdf