Vẻ đẹp quê hương đất nước và phong tục tập quán qua tản văn Việt Nam hiện đại
Tản văn Việt Nam hiện đại (tính từ thế kỷ 20 cho đến nay) đã đạt được những
thành tựu nhất định và có thể khái quát tập trung với các xu hướng như sau: 1- Tản văn ca
ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước; 2- Tản văn đi vào phong tục tập quán, bản sắc văn hóa của
dân tộc; 3- Tản văn khai thác các vấn đề mang tính xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng; 4-
Tản văn đi vào các vấn đề văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, theo sự phát triển của thời gian, cùng
với đội ngũ sáng tác, số lượng tác phẩm, đề tài của tản văn ngày càng được mở rộng phong
phú, đa dạng và mới mẻ hơn. Trong bài viết này, chúng tôi đi sâu vào đề tài ca ngợi vẻ đẹp quê
hương và phong tục tập quán dân tộc của tản văn Việt Nam hiện đại.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vẻ đẹp quê hương đất nước và phong tục tập quán qua tản văn Việt Nam hiện đại
độc đáo của một nhóm người tiêu biểu cho lớp thế hệ xưa từng sinh sống ở Hà Nội. Nguyễn Trương Quý là đại diện cho người trẻ sáng tác về Hà Nội với cách nhìn nhận mới có sự khác biệt tương đối với các tác giả khác. Dù sao, cách nhìn của người trẻ vẫn luôn đổi mới và thú vị theo “cá tính” thời gian. Mỗi tên tựa là một khám phá, rất thời sự, dí dỏm, trần trụi nhưng không hề thiếu chất lãng mạn của tản văn Nguyễn Trương Quý: “Tự nhiên như người Hà Nội”, “Hà Nội là Hà Nội”, và “Ăn phở rất khó thấy ngon”. Hay Đỗ Phấn với các tập tản văn: Chuyện vãn trước gương (2005), Ông ngoại hay cười (2011), Phượng ơi (2012), Hà Nội thì không có tuyết (2013)... Trong cảm nhận của cá nhân tác giả, Hà Nội còn là sự giằng co giữa ý thức truyền thống và đổi mới, không ít người cảm thấy lạc lõng giữa nơi mình đang sinh sống. Nguyễn Bảo Sinh với “Bát phố” là sự pha trộn giữa tản văn và tiểu thuyết, viết về Hà Nội từ một góc nhìn vừa mang nét riêng tư, vừa khái quát “đến nỗi những người Hà Nội cùng thế hệ đọc đều gật gù”. Băng Sơn với “Hà Nội rong ruổi quẩn quanh” gồm 33 bài tản văn viết về Hà Nội, thể hiện cách nhìn và cách yêu Hà Nội mang dấu ấn riêng tác giả. Chúng ta như được cùng nhà văn khám phá Hà Nội, một Hà Nội của cả quá khứ và hiện tại, một Hà Nội thanh lịch, trầm mặc và nhộn nhịp sầm uất. Viết về Hà Nội, còn có nhiều tác giả với hai cuốn: “Làng - ngõ, vỉa hè” và “Hàng rong phố cổ”. Tập hợp những bài tản văn về Hà Nội mang nét rất riêng, đưa người đọc đến với vùng đất Hà Nội xưa và nay, để hiểu thêm về văn hóa và con người nơi đây... Gần đây nhất là ngày 15/3/2016, nhạc sĩ Việt kiều Mai Lâm ra mắt ba tập tản văn “Từ xa Hà Nội”, “Xa rồi ngày xanh”, “Chỉ còn tuyết trắng”, đó là sự lưu luyến, day dứt của người thương nhớ Hà Nội khôn nguôi. Trong mỗi câu chữ luôn thấp thoáng nỗi buồn lạc lõng, dù ở quê nhà hay xứ người. Tản văn viết về Sài Gòn cũng không kém phần sôi nổi. Chỉ riêng cuối năm 2013 và những tháng đầu năm 2014 đã có hàng loạt tản văn mới. Bộ ba cuốn mang tên chung Sài Gòn tạp văn bao gồm: “Sài Gòn sau màn bụi”, “Ngon vì nhớ”, “Hẻm phố thông ra thế giới” là những lát cắt văn chương và cuộc đời chốn đô thị của những cây bút gắn bó với Sài Gòn. Không chỉ là câu chuyện về món ăn, thức uống, một chỗ ngồi, một con phố, tên người... tản văn về Sài Gòn diễn dịch lại chính mình trong hình dung của thành phố bao dung. Đàm Hà Phú với “Sài Gòn bao nhớ” là cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của tác giả xung quanh đề tài tính cách của con người Sài Gòn. Bằng những mẩu chuyện thú vị, ấm áp về những con người Sài Gòn bình thường, có thật, nhà văn khắc họa sinh động và sâu sắc tính cách Sài Gòn: giản dị, hào sảng, nghĩa khí; “Những lối về ấu thơ” là tập tản văn đầy cảm xúc của một thời thơ trẻ về một Sài Gòn cũ kỹ đã xa; “Chuyện nhỏ Sài Gòn” diễn tả tình cảm yêu thương mảnh đất này thật mơ hồ mà mãnh liệt đến ngạt thở của Đàm Hà Phú. Khải Đơn với tập tản văn “Sài Gòn - Thị thành hoang dại” viết về Sài Gòn, về những người nhập cư đã rời xa quê hương để 56 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đi tìm một “miền đất hứa”. Họ thắp lửa trong tim, mang vào thành phố với những số phận khác nhau nhưng thể hiện tình yêu và sức mạnh của mình với Sài Gòn. Tập tản văn “Sài Gòn cứ vội” của hai tác giả trẻ Tử An và Ngọc Hoài Nhân đưa bạn đọc tới một Sài Gòn vừa sôi động, tình cảm, lại vừa trầm lắng, bâng khuâng. Hay “Sài Gòn - Chuyện đời” của Phạm Công Luận gồm 36 bài viết về những câu chuyện gợi nhớ một Sài Gòn xưa: Con đường ký ức, Hồn đô thị, Nhà cổ ven đường, Tìm lại giấc mơ xưa, Nhiếp ảnh gia của nghệ sĩ Sài Gòn, Bản hợp ca Thăng Long, Một cuộc thi hoa hậu, Giai nhân một thuở... Với sự tò mò cố hữu và kinh nghiệm 30 năm làm báo, tác giả đã ghi lại được nhiều câu chuyện thú vị. MC Tùng Leo với “Tìm nhau giữa Sài Gòn” mang cái nhìn về thời cuộc, lối sống của giới trẻ đô thị. Không tả thực đơn thuần về cảnh sắc và con người của Sài Gòn, những bài viết ngắn giàu cảm xúc, dễ đi vào lòng người của Tùng Leo về tình yêu, những chuyến đi, những gì mình yêu thích, cho độc giả thấy không gian chứng kiến những biến động trong cuộc sống của MC tài năng này. Phong vị của Sài Gòn hiện lên một cách rất tự nhiên và thấm sâu, bắt nhịp rất đồng điệu với các hoạt động sôi động đang diễn ra ở Sài Gòn. Sài Gòn chữ vội trên vai của tác giả Vũ Minh Đức ra mắt tháng 7/2016 là một tản văn khá nhẹ nhàng, nhưng từng mẩu chuyện, từng câu chữ cũng đã phần nào chạm đến được cảm xúc của những người đã và đang sống, đang được thở hơi thở của Sài Gòn. Với 30 tản văn viết về Sài Gòn và những câu chuyện đời thường. 30 tản văn như 30 thông điệp gửi đến bạn đọc cho 30 ngày của một tháng, tác giả chỉ mong muốn mọi người hãy sống chậm lại một chút giữa Sài Gòn vội vã này để cảm nhận cuộc sống quanh mình đẹp hơn, để cùng nhau sống tử tế và ý nghĩa hơn. Ngoài ra, còn có nhiều cây bút thành danh như: Huỳnh Như Phương, Lý Quý Chung, Trần Tiến Dũng, Huỳnh Ngọc Trảng, Quốc Bảo, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Võ Phi Hùng, Sue Hajdu, Dennis Coleman... tất cả đã tạo ra một dòng thời gian về Sài Gòn thật đặc sắc. Dọc theo chiều dài đất nước, tản văn viết về Huế cũng không kém phần mơ mộng, trầm tư và trữ tình. Huế với dòng sông Hương đẹp đến nao lòng đã đi vào tản văn của nhiều tác giả như một biểu tượng trường tồn của xứ Huế. Dòng sông ấy “mượt mà như dải lụa, lòng bời bời nỗi nhớ” (Ngạt ngào dòng Hương - Nguyễn Văn Dũng). Độc giả được về với xứ sở của tà áo dài Huế cùng những biểu tượng đẹp của xứ mộng mơ được đánh giá là catalogue bỏ túi hữu ích cho du khách trên những hành trình du lịch qua hai tập tản văn của nhiều tác giả gồm: “Áo bay khép mở nhiều tâm sự”, “Mộng mơ và ăn cay nói nặng”. Vẻ đẹp quê hương đất nước còn được phản ánh qua nét sinh hoạt của con người Việt Nam, đó là hương vị quê hương “Thoang thoảng hương cau - Phan Thị Thanh Ly”, là Hoa mướp vàng - Đức Huy, là Hoa nhãn - Nguyễn Tiến Bình, là Chan chát vị sung xanh - Song Hà... Tản văn cũng khai thác được đặc trưng của các vùng miền qua các món ăn đặc sản như: Khoai lang xứ Quảng - Phan Thị Thanh Ly, Rươi Đông Triều, bún tôm Uông Bí - Uông Triều, Cốm vòng - Ngọc Lành, Về Trùng Khánh mà nghe hạt dẻ - Y Phương... Với giọng điệu thiết tha, tự hào, các tác giả gửi gắm tình quê hương đất nước sâu sắc. Đặc biệt, ngày nay chứng kiến những thay đổi lớn về cuộc sống, môi trường thiên nhiên đang bị hủy hoại nghiêm trọng, tản văn khá tinh tế và nhạy cảm đã muốn gửi tới con người thông điệp cần phải có thái độ ứng xử đúng đắn và trân trọng với thiên nhiên. Bởi, thiên nhiên chính 57 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI là “bản thể đậm chất người’ trong tâm thức sáng tạo của con người (“Có một kẻ rời bỏ thành phố”, “Trò chuyện về những cái cây đã chết”- Quang Thiều; “Phố và cây Hà Nội” - Hoàng Việt Hằng). 2.2. Tản văn ca ngợi phong tục tập quán Việt Nam Nói về phong tục tập quán của Việt Nam qua tản văn, các tác giả đề cập nhiều nhất đến phong tục về ngày tết. Đó là tục đầu năm đi lễ chùa, xin lộc với mong ước cầu may, tài lộc cho bản thân và gia đình “làm tôn lên vẻ đẹp văn hóa truyền thống của người Việt, mãi là một nét chấm phá lung linh trong mùa xuân của toàn dân tộc Việt Nam” (Lễ chùa, xin lộc đầu năm - Lam Điền); đó là biểu tượng về cây nêu ngày tết “trừ tà ma, một biểu tượng của cây vũ trụ, chuyên chở những ý nghĩa nhân sinh cao đẹp” - Tản mạn về cây nêu - Trần Vân Hạc; Tục xông đất, nét đẹp văn hóa Việt - Hồng Hạnh hay tục đi chúc tết, tổ chức các trò chơi, lễ hội đầu năm... (Tản mạn về tết cổ truyền- Hoàng Trọng Muôn); tục viết câu đối và treo câu đối xuân (Tản mạn về câu đối Tết - Trần Phỏng Diều)... Tản văn viết về phong tục tập quán truyền thống nổi bật nhất với các tản văn của Y Phương - một phong cách riêng, độc đáo cho vùng văn hóa dân tộc miền núi. Là nhà thơ dân tộc Tày sinh ra và lớn lên ở Cao Bằng, Y Phương luôn cháy bỏng khát khao về cảnh sắc thiên nhiên và con người, cuộc sống của đồng bào người Tày. Với sự kết tinh bản sắc văn hóa Tày độc đáo, có sự giao thoa - tiếp biến với bản sắc văn hóa Việt đã mang lại một “hương sắc riêng” không thể lẫn với tản văn của các nhà văn khác. Bản sắc văn hóa Tày Nùng được thể hiện rõ nét trong tản văn Y Phương “Tháng giêng tháng giêng một vòng giao quắm”, “Kungfu người Co Xàu”. Thông qua các tản văn về trò chơi dân gian, ẩm thực, lễ hội truyền thống, phong tục ngày lễ tết... Y Phương đã giúp người đọc có cái nhìn bao quát về văn hóa tâm linh của con người miền núi nói chung, người Tày Nùng trên mảnh đất Trùng Khánh - Cao Bằng quê hương của ông nói riêng. Đọc tản văn của Y Phương người đọc thấy chất miền núi, chất Tày vẫn không bị mất đi mà kết hợp hài hòa lối tư duy hiện đại tạo nên những trang viết bình dị mà sâu lắng, thiết tha nghĩa tình thấm đượm. Y Phương không chỉ hiểu biết về cách thức tổ chức trong các lễ hội, phong tục mà trong chiều sâu văn hóa, ông đã thấy được ý nghĩa của nó đối với đời sống con người. Mỗi phong tục là một vẻ đẹp, đó là vẻ đẹp trong lối sống, tâm hồn của con người nơi đây. Y Phương nói về các phong tục trong ngày lễ, tết như: Mùa xuân vùng cao trong tản văn Y Phương là trò chơi dân gian qua tản văn “Đố bên nào ném thủng hồng tâm”, người Tày Nùng với tết Slip Sli, với hai món ăn không thể thiếu là bánh gai và thịt vịt (Tết Slip Sli ăn thịt vịt), hay Tết cốm vào tháng tám... Và các phong tục tập quán trên quê hương của mình như: Tục thăm gái đẻ (Dzương eng, tục thăm gái đẻ)... Y Phương dường như trở thành chuyên gia ẩm thực, hiểu tường tận về các món ăn đặc trưng của vùng núi Cao Bằng như: Phở chua, xôi ngũ sắc, vịt quay, xôi đen... Dấu ấn văn hóa tâm linh thể hiện rất đậm nét qua tản văn Y Phương, ông phản ánh lễ tết, tục thờ cúng của đồng bào dân tộc Tày Nùng với Thanh minh trong tiết tháng Ba hay Chuyện ma gà... Bằng giọng văn giản dị, mộc mạc, chân thực, mọi góc cạnh của đời sống văn hóa tâm linh đều được ông thể hiện chiều sâu văn hóa đậm nét văn hóa dân tộc. 58 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Màu sắc văn hóa Nam Bộ cũng được khắc họa sắc nét trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư với Yêu người ngóng núi, Gáy thì người lạnh, Đong tấm lòng. Là một người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư có một “không gian” văn hóa của riêng mình, như cội nguồn của mọi sáng tạo. Dấu ấn của không gian văn hóa Nam Bộ bao trùm trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, đó là hiện thực cuộc sống con người về vùng đất phù sa sông nước, cánh đồng lúa trải dài bất tận, những miệt vườn rộng lớn, sum sê cây trái... về chợ nổi, bài vọng cổ buồn... Tác giả vẽ nên bức tranh toàn cảnh về mảnh đất Nam Bộ giản dị, tự nhiên, đầy sức sống. Con người Nam Bộ bình dị, lam lũ, nghèo khổ nhưng đáng trân trọng, đặc biệt nhất là hình ảnh người má thân thương, tần tảo. Trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư, cái “chất quê” rất dồi dào, mặn mòi, thấm thía từ cảnh cho tới người, từ cái nếp nghĩ, tình thương cho tới lời ăn tiếng nói, thể hiện tình yêu thương, tự hào, gắn bó, yêu mến cảnh sắc, hương vị đặc trưng về đất Mũi. Với lối viết gần gũi, tự nhiên, giọng văn tinh tế, tản văn Nguyễn Ngọc Tư là một bức tranh văn hóa đa màu sắc, một thế giới thấm đẫm màu văn hóa Nam Bộ với những nét văn hóa độc đáo, đặc trưng về thiên nhiên của vùng quê sông nước, về nét văn hóa ứng xử tình người và về cả gìn giữ văn hóa trong sự đa chiều, phức tạp của cuộc sống hiện đại. Hay phong vị quê hương Quảng Nam được phản ánh sâu đậm trong tản văn của Nguyễn Nhật Ánh. Với Nguyễn Nhật Ánh, quê hương đất nước luôn là nguồn cảm hứng bất tận và dạt dào cảm xúc. Mạch cảm hứng về quê hương, đất nước như một dòng chảy mạnh mẽ xuyên suốt các tản văn của Nguyễn Nhật Ánh. Qua các tập tản văn Sương khói quê nhà, Người Quảng đi ăn mì Quảng đến Thương nhớ Trà Long, tác giả đều dành một vị trí đặc biệt ở trang bìa đầu tiên, để nâng niu đặt lên đó tên gọi miền quê của mình. Nguyễn Nhật Ánh có những kỉ niệm đặc biệt gắn bó với thôn quê. Hầu hết, những tác phẩm của ông đều lấy bối cảnh Quảng Nam, khi Bình Quế, Bình Tú, lúc Tam Kỳ Ông “về quê” qua những địa danh, ký ức trong văn chương cũng như ẩm thực. Mỳ Quảng là món ăn đặc trưng của người Quảng Nam, cũng chính là hình bóng quê hương trong lòng tác giả. Cảm hứng về quê hương đất nước, nhân văn và con người và những nét đẹp của văn hóa vùng miền trong tản văn Nguyễn Nhật Ánh. Những hồi ức, ghi nhớ rất đỗi chân thực và tinh tế đã vẽ ra cả một miền quê với vẻ đẹp tự nhiên, bình dị, lối sống kích thích sự tò mò và yêu thích của độc giả. Với giọng điệu mang đậm sắc thái ngợi ca, thể hiện niềm tự hào của dân tộc, tản văn thời kì này đã tái hiện sắc nét vẻ đẹp văn hóa, phong tục tập quán lâu đời được bảo tồn nguyên vẹn trong cộng đồng dân tộc, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Qua đó, tản văn góp phần không nhỏ trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì hội nhập và giao lưu quốc tế. 3. Kết luận Có thể nói, tản văn hiện đại Việt Nam dần khẳng định được vị thế của mình trong thành tựu của nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin, môi trường mạng chính là không gian lý tưởng cho tản văn tồn tại và phát triển mạnh mẽ. Tản văn thời kì này cũng khá đa dạng về mặt đề tài, nhưng bản sắc văn hóa dân tộc qua tản văn ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước, phong tục tập quán, là một trong những đóng góp quan 59 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI trọng của tản văn về số lượng, nội dung nghệ thuật và sự phong phú về phương thức thể hiện. Tản văn đề tài này mang sắc thái ngợi ca, tự hào, qua đó, người đọc có cái nhìn toàn diện, sâu sắc, đa chiều hơn về văn hóa truyền thống của dân tộc trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Tài liệu tham khảo [1]. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học và văn hóa, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [2]. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [3]. Lê Trà My (2008), “Tản văn Việt Nam thế kỷ 20 (Từ cái nhìn thể loại)”, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [4]. van-thoi-doi-moi-va-hoi-nhap-254642. THE BEAUTY OF THE HOMELAND AND TRADITIONAL CUSTOMS EXPRESSED IN VIETNAMESE CONTEMPORARY PROSE Nguyen Thi Ha, Ph.D student Abstract: Vietnamese contemporary prose (since the 20th century until now) has achieved certain achievements and covered with the following themes: 1- The beauty of the homeland; 2- Traditional customs and cultural identity; 3- Social issues; 4- Literature and art. Along with the growth of writers and works, the themes of proses have been more and more diverse. As a result, the beauty of the homeland and traditional customs expressed in Vietnamese contemporary prose is presented in this paper. Key words: Vietnamese contemporary prose, the beauty of the homeland, traditional customs Người phản biện: NCS.GVC. Hoàng Thị Kim Oanh (ngày nhận bài 22/12/2018; ngày gửi phản biện 24/12/2018; ngày duyệt đăng 05/01/2019). 60
File đính kèm:
- ve_dep_que_huong_dat_nuoc_va_phong_tuc_tap_quan_qua_tan_van.pdf