Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính
Tóm tắt - Trong những năm gần đây, có rất nhiều phương pháp dạy
học tích cực được áp dụng với mục đích phát huy tối đa tính chủ động
của sinh viên trong quá trình học tập, góp phần vào việc đổi mới phương
pháp dạy học đại học và đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.
Với bài viết này tác giả mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm vận dụng
phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế toán
tài chính nhằm tạo ra nhiều hứng thú trong học tập, đồng thời giúp sinh
viên có điều kiện gắn những kiến thức lý thuyết vào thực tế, có ý thức
tự nghiên cứu, có khả năng làm việc nhóm, khả năng thuyết trình,.
Việc phát triển các phương pháp dạy học tích cực và học tập hợp tác
không chỉ có ý nghĩa ngay trong quá trình sinh viên học tập ở nhà
trường, mà còn chuẩn bị cho họ những kỹ năng cần thiết phục vụ cho
quá trình công tác, làm việc sau khi tốt nghiệp ra trường.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính
được dùng trong trường hợp tình huống đề cập đến hai quan điểm hoặc giải pháp trái ngược nhau cho cùng một vấn đề, ví dụ trường hợp có nên hay không ghi nhận một khoản doanh thu. Việc tranh luận bảo vệ quan điểm sẽ làm tăng tính chủ động và phát triển tư duy của người học, giúp người học hiểu sâu và lý giải vấn đề môt cách thông suốt, từ đó đạt được mục tiêu của tình huống đề ra trong giảng dạy [5], [7]. Ví dụ minh họa một Case Study được áp dụng trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính: Tiết giảng “Kế toán ghi nhận doanh thu đối với giao dịch bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo chương trình dành cho khách hàng truyền thống” Nôi dung tình huống: Việt Nam Ariline thực hiện chương trình Bông Sen Vàng dành cho khách hàng thường xuyên như sau: Trong thời hạn 1 năm nếu khách hàng bay đạt 25.000 dặm/1 năm, thì khách hàng sẽ được tặng 01 chặng bay khứ hồi Hà Nội – Đà Nẵng hoặc 01 đêm sử dụng dịch vụ miễn phí tại Bà Nà Hill. Trong năm khách hàng A tích lũy được số dặm là 76 Nguyễn Linh Giang 25.100 dặm, do đó khách hàng đủ điều kiện để đổi 01 vé máy bay khứ hồi Hà Nội – Đà Nẵng hạng phổ thông và tài khoản tích lũy của khách hàng còn dư là 100 dặm sau khi nhận vé thưởng [3], [9]. Tổng doanh thu cung cấp trong kỳ cho khách hàng A là 102.888.000 đồng (bằng tiền gửi Ngân hàng). Chuyến bay Hà Nội – TP Hồ Chí Minh tương đương 708 dặm. Giá vé Hà Nội - TP Hồ Chí Minh: 2.997.000đồng/chiều, chưa bao gồm thuế GTGT. Giá vé khứ hồi Hà Nội – Đà Nẵng là 5.000.000đồng Giá 01 đêm ở Bà Nà Hill là 5.000.000đồng/đêm. Hoa hồng đại lý VNA được hưởng trong trường hợp Việt Nam Airline làm đại lý cho Bà Nà Hill 25%. Giả sử giá vốn là: 3.500.000 đồng trong trường hợp Việt Nam Arline không đóng vai trò làm đại lý mà mua đứt bán đoạn dịch vụ và cung cấp miễn phí cho khách hàng. Hệ thống các câu hỏi: 1. Cho biết đặc điểm của giao dịch bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo chương trình dành cho khách hàng truyền thống trong trường hợp tình huống của Việt Nam Airline? 2. Cho biết nguyên tắc ghi nhận doanh thu đối với giao dịch bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo chương trình dành cho khách hàng truyền thống? 3. Kế toán ghi nhận doanh thu bán hàng hóa cung cấp dịch vụ cho khách hàng trong trường hợp của Việt Nam Airline này như thế nào? 4. Trường hợp khách hàng A thực hiện đổi điểm lấy vé thưởng dịch vụ bay cho Việt Nam Airline cung cấp, kế toán sẽ ghi nhận như thế nào? 5. Trường hợp khách hàng A thực hiện việc đổi dặm lấy 01 đêm sử dụng dịch vụ tại Bà Nà Hill, kế toán sẽ ghi nhận như thế nào: a. Nếu Việt Nam Airline đóng vai trò là đại lý cho Bà Nà Hill? b. Nếu Việt Nam Airline không đóng vai trò là đại lý cho Bà Nà Hill? 6. Hãy cho biết kế toán sẽ sử dụng các chứng từ và sổ chi tiết và sổ tổng hợp nào để phản ánh nghiệp vụ kinh tế trên đối với từng Câu hỏi 4, Câu hỏi 5a, Câu hỏi 5b trong trường hợp Việt Nam Airline áp dụng hình thức Nhật ký chung và có sử dụng các sổ Nhật ký đặc biệt? Hướng dẫn tài liệu tham khảo: * Tài liệu bắt buộc - Giáo trình Kế toán tài chính doanh nghiệp, chủ biên TS. Nguyễn Công Phương, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng, NXB Tài Chính, 2010; - Bài giảng Kế toán tài chính, Bộ môn Kế toán – Tin học, Khoa Hệ thống Thông tin Kinh tế, Trường Cao đẳng Công nghệ thông tin Đà Nẵng, 2014; - Giáo trình Kế toán tài chính doanh nghiệp, chủ biên TS Đặng Thị Hòa - TS Phạm Đức Hiếu, NXB. Giáo dục Việt Nam, 2009; - Thông tư 200/TT-BTC ban hành ngày 22/12/2014 về việc hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp. * Tài liệu tham khảo - Tạp chí Kế toán – Kiểm toán; - Tạp chí Tài chính; - Các Website: webketoan.vn; danketoan.com; giaiphapexcell.com; gdt.gov.vn. Tính thực tiễn của tình huống: Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh áp dụng các chương trình bán hàng dành cho khách hàng truyền thống, tuy nhiên Chế độ kế toán chưa có sự hướng dẫn cụ thể, dẫn đến người làm kế toán ở các doanh nghiệp còn rất mơ hồ trong việc ghi nhận doanh thu trong trường hợp này. Chỉ đến khi Thông tư 200/TT-BTC ban hành ngày 22/12/2014 thì khái niệm chương trình dành cho khác hàng truyền thống mới được đưa ra lần đầu tiên. Chương trình dành cho khách hàng truyền thống khác với các chương trình chiết khấu, khuyến mãi, đó là đối với chương trình này, khách hàng được tích điểm thưởng để khi đạt đủ số điểm theo quy định sẽ được nhận một lượng hàng hóa, dịch vụ miễn phí hoặc được giảm giá chiết khấu. Như vậy, tình huống Việt Nam Airline đưa ra thực sự nóng hổi, giúp cho người học có thể hình dung về thực tế một cách rõ ràng hơn và có thể vận dụng các chế độ chính sách kế toán mới để giải quyết vấn đề một cách triệt để [2], [3]. Tổ chức giảng dạy: Giảng viên giới thiệu tình huống cho lớp học và cung cấp các kiến thức cần thiết về mặt lý thuyết liên quan đến tình huống đưa ra. Giảng viên cần thiết phải giải thích thật chi tiết tình huống để sinh viên hiểu rõ các vấn đề cần giải quyết và xác định nhiệm vụ, vai trò của sinh viên khi tham gia vào tình huống đó. Sau đó, giảng viên sẽ tiến hành giảng dạy Case Study theo phương pháp thảo luận nhóm và phản biện. Giảng viên cho sinh viên thảo luận khoảng 10 -15 phút, tiếp theo các nhóm sinh viên sẽ lên trình bày và các nhóm khác phản biện. Trong quá trình phản biện, giảng viên đóng vai trò là người hướng dẫn, điều hành chung và có thể đưa ra các gợi ý để kích thích sinh viên tham gia trao đổi sôi nổi và đi đúng trọng tâm của bài giảng. Tổ chức lớp học và phân bổ thời gian: - Đối với công tác chuẩn bị: Giảng viên đưa ra tình huống, hướng dẫn các tài liệu bắt buộc và tài liệu tham khảo cho sinh viên trước 02 buổi, để sinh viên làm việc theo nhóm thảo luận trước ở nhà, nhằm tiết kiệm thời gian trình bày và thảo luận trên lớp, để dành nhiều thời gian cho tranh luận và phản biện. - Đối với cách thức chia nhóm: Sinh viên được chia theo nhóm với sĩ số khoảng 5 - 7 người. Các nhóm được chia trên tinh thần tự nguyện kết hợp với phân công của giảng viên từ đầu khóa học và không thay đổi trong suốt khóa học. Giảng viên hướng dẫn sinh viên cách tổ chức nhóm như: bầu trưởng nhóm, tên nhóm, ghi danh sách thành viên, cách thống nhất phương án giải quyết vấn đề của nhóm - Đối với việc tổ chức thảo luận, báo cáo: Các nhóm lên trình bày theo nội dung đã phân công, nhóm tự chọn người ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 12(97).2015, QUYỂN 2 77 đại diện trình bày, thời gian trình bày tối đa là khoảng 5-10 phút; sau đó nhóm trả lời phản biện của các nhóm còn lại; giảng viên cũng có thể hỏi những vấn đề trong nội dung trình bày, trên cơ sở đó tạo hứng thú cho sinh viên mạnh dạn trình bày ý kiến và để không khí lớp học trở nên sôi nổi hơn. Các thành viên trong nhóm có thể thảo luận nội dung và cách thức trả lời, sau đó cử đại diện nhóm trả lời hoặc chỉ định từng cá nhân trong nhóm trả lời. Qua đó có thể đánh giá được nhóm nào chuẩn bị tốt, nhóm nào không. Sau khi nhóm báo cáo trả lời phản biện xong, các nhóm khác nếu thấy không thống nhất với cách trả lời đó, có thể trình bày cách giải quyết của nhóm mình hoặc bổ sung, chất vấn thêm. Cuối cùng, giảng viên là người tổng kết lại các vấn đề của mỗi nhóm thảo luận, trên cơ sở đó rút ra kết luận về những nội dung lý thuyết mà sinh viên cần nắm được. Phương pháp đánh giá người học: - Đối với đánh giá cá nhân: Thông qua hoạt động thảo luận trên lớp giảng viên có cơ sở cho việc cộng điểm khuyến khích các cá nhân. Việc đánh giá phải được tiến hành công khai, có tham khảo ý kiến của các nhóm khác. Bên cạnh đó, giảng viên có thể hỏi bất cứ vấn đề nào đối với bất cứ cá nhân nào liên quan đến nhóm thực hiện, để đánh giá phân loại cá nhân trong nhóm [7]. - Đối với đánh giá nhóm: Thông qua các tiêu thức cho điểm trước khi thảo luận đã đề ra, giảng viên tiến hành đánh giá công khai cho từng tiêu chí như: trình bày đúng giờ, nội dung trình bày dễ hiểu, trả lời các câu hỏi phản biện, tinh thần hợp tác và hỗ trợ nhóm có tốt không...[7]. 4. Đánh giá việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính 4.1. Ưu điểm Việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy môn học Kế toán tài chính mang lại nhiều ưu điểm như sau: - Giúp nâng cao được tính thực tiễn của môn học Kế toán tài chính. Cụ thể, sau khi đã được cung cấp các kiến thức lý thuyết, bài tập tình huống sẽ giúp sinh viên có cái nhìn sâu hơn và thực tiễn hơn về vấn đề lý thuyết đã được học. Từ đó, thông qua việc xử lý tình huống, sinh viên sẽ có điều kiện để vận dụng linh hoạt các kiến thức lý thuyết. - Giúp nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của sinh viên trong quá trình học. Khác với việc tiếp thu lý thuyết một cách thụ động, khi được giao các bài tập tình huống, các nhóm học tập cần chủ động tìm kiếm và phân tích các thông tin để đi đến giải pháp cho tình huống. Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu này, sinh viên phải chủ động tư duy, thảo luận và tranh luận trong nhóm hay với giảng viên, tìm hiểu thêm về lý thuyết, tài liệu tham khảo để đạt đến giải pháp. Chính trong quá trình tư duy, tranh luận, bảo vệ và sửa đổi các đề xuất - giải pháp của mình, sinh viên đã tham gia vào quá trình nhận thức. Sự tham gia tích cực đó góp phần tạo ra sự hứng thú và say mê học tập, sáng tạo của sinh viên. Đây chính là lúc quá trình dạy và học tập trung vào học phương pháp học, phương pháp tiếp cận, phân tích và tìm giải pháp chứ không chỉ giới hạn ở việc học các nội dung cụ thể. - Giúp sinh viên được rèn luyên và nâng cao kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng phân tích, giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến trước đám đông. Để giải quyết tình huống, sinh viên được yêu cầu làm việc trong nhóm từ 5 - 7 thành viên. Cả nhóm cùng phân tích và thảo luận để đi đến giải pháp, sau đó trình bày giải pháp của mình cho cả lớp. Lúc này sinh viên tiếp thu được kinh nghiệm làm việc theo nhóm, chia sẻ kiến thức, thông tin để cùng đạt đến mục tiêu chung. Các kỹ năng như trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến cũng được hình thành trong bối cảnh này. Sinh viên cũng học được cách tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác để làm cho vốn kiến thức của mình phong phú hơn. - Trong vai trò là người dẫn dắt, giảng viên cũng sẽ tiếp thu được rất nhiều kinh nghiệm và những cách nhìn hay giải pháp mới từ phía người học để làm phong phú bài giảng và điều chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu. Đây cũng là một kênh quan trọng để giảng viên thu thập kinh nghiệm từ người học. - Các tình huống tốt sẽ có tính chất liên kết lý thuyết rất cao. Để giải quyết một tình huống một cách tốt nhất, sinh viên phải vận dụng và điều chỉnh nhiều kiến thức lý luận khác nhau, đây chính là lúc các lý thuyết rời rạc của một môn học được nối lại thành bức tranh tổng thể. Như vậy, ở mức độ ứng dụng cao hơn, sinh viên không chỉ vận dụng kiến thức của một môn học, mà trong nhiều trường hợp phải vận dụng kiến thức của nhiều môn học khác nhau. 4.2. Hạn chế Bên cạnh các ưu điểm đạt được thì việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống vào giảng dạy môn học Kế toán tài chính còn bộc lộ một số hạn chế: - Phương pháp nghiên cứu tình huống khó có thể giúp giảng viên chuyển tải đầy đủ những kiến thức cơ bản, thiết yếu về bài học. Vì vậy, nó cần được phối hợp với các phương pháp khác, ví dụ phương pháp thuyết giảng, phương pháp phân tích và phương pháp dạy học dựa trên vấn đề. - Với các lớp đông, sẽ rất khó để mọi sinh viên đều có cơ hội phát biểu hoặc tham gia đầy đủ các hoạt động học tập, đồng thời giảng viên sẽ gặp khó khăn trong việc tổ chức lớp học theo phương pháp này. Việc phân chia theo khu vực và sinh viên ngồi theo nhóm với nhau là một biện pháp hữu hiệu, ngoài ra giảng viên phải làm việc tích cực hơn, di chuyển nhiều hơn trong lớp học. - Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi có nhiều thời gian, trong khi theo học chế tín chỉ thì thời lượng dành cho các môn học nhìn chung bị giảm bớt. Điều này đòi hỏi sinh viên phải dành thêm thời gian tự học để chuẩn bị trước những yêu cầu do giảng viên đặt ra. Việc giảng viên tư vấn cho sinh viên cách tự đọc tài liệu, tự tìm tài liệu tham khảo và cách thức làm việc nhóm sẽ giúp sinh viên học tập hiệu quả hơn, quản lý thời gian tốt hơn. - Để xây dựng được những tình huống có hiệu quả cao, giảng viên cần đầu tư nhiều thời gian để tiếp cận các nguồn thông tin khác nhau từ thực tiễn cuộc sống và lĩnh vực nghề nghiệp có liên quan. Chịu khó cập nhật thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang web chuyên ngành và tham khảo các chương trình truyền hình về các 78 Nguyễn Linh Giang vấn đề liên quan đến kinh tế tài chính là rất quan trọng. 5. Kết luận Tóm lại, việc đưa ra tình huống để sinh viên đọc tài liệu và giải quyết sẽ tạo nhiều hứng thú trong học tập, giúp sinh viên có điều kiện gắn những kiến thức lý thuyết vào thực tế, đồng thời tạo tính chủ động nghiên cứu và phát huy được những lợi ích của làm việc nhóm, giúp định hướng học tập cho sinh viên cụ thể hơn. Việc phát triển các phương pháp dạy học tích cực, học tập hợp tác không chỉ có ý nghĩa ngay trong quá trình học tập ở nhà trường, mà còn chuẩn bị cho sinh viên những kỹ năng cần thiết cho quá trình công tác, làm việc sau khi ra trường. Hơn thế nữa, việc vận dụng phương pháp nghiên cứu tình huống vào giảng dạy môn học Kế toán tài chính giúp cho bài giảng phong phú thông tin hơn, hỗ trợ cho việc vận dụng các kiến thức đã học vào tình huống cụ thể trong thực tiễn, giúp bài giảng có chất lượng tốt hơn nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Boehrer, J. (1995), How to teach a case, Kennedy School of Government Case Programme. [2] Bộ tài chính (2015), Chế độ kế toán doanh nghiệp - Hệ thống tài khoản kế toán – Quyển 1, NXB Tài chính, Hà Nội. [3] Bộ tài chính (2015), Chế độ kế toán doanh nghiệp – Báo cáo tài chính doanh nghiệp độc lập báo cáo tài chính hợp nhất chứng từ và sổ kế toán ví dụ thực hành – Quyển 2, NXB Tài chính, Hà Nội. [4] Conant, James B. (1949), The growth of the experimental sciences: An experiment in general education. New Haven, CT: Yale University Press. [5] Christensen, C. Roland & Abby J. Hansen (1986), Teaching and the case method. Boston: Havard Business School Publishing Division. [6] Harvard business School (1989), Learning by the Case Method in Marketing. [7] Lê Công Triêm (chủ biên), Nguyễn Đức Vũ, Trần Thị Tú Anh (2002), Một số vấn đề hiện nay của phương pháp dạy học đại học, NXB GD, Hà Nội. [8] TS. Nguyễn Công Phương (2010), Giáo trình kế toán tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính. [9] Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tại Việt Nam: (BBT nhận bài: 01/08/2015, phản biện xong: 02/11/2015)
File đính kèm:
- van_dung_phuong_phap_nghien_cuu_tinh_huong_trong_giang_day_m.pdf