Vấn đề ôn tập môn Chính trị học đại cương
I. Khái niệm, đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của chính trị học
1. Khái niệm:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp; các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ,tổ chức và sử dụng các quyền lực nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái,, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Chính trị học là khoa học nghiên cứu lĩnh vực chính trị nhằm làm sáng tỏ những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị- xã hội, cùng những thủ thuật chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật đó trong xã hội có giai cấp và được tổ chức thành nhà nước.
CTH được hiểu ở hai góc độ:
CTH đại cương
CTH chuyên biệt
2. Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu của Chính trị học là những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị xã hội; những cơ chế tác động , cơ chế vận dụng: những phương thức, thủ thuật, công nghệ chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật đó. Đặc biệt là quy luật về giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước- trong đời sống xã hội.
- Chính trị học nghiên cứu:
+ Mục tiêu chính trị trước mắt và những mục tiêu triển vọng mang tính hiện thực, cũng như con đường giải quyết những nghĩa vụ để đạt được mục tiêu đó.
+ Những phương pháp, phương tiện, thủ thuật cộng hình thức tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề ôn tập môn Chính trị học đại cương
ọ mới tập hợp, động viên được quần chúng và được quần chúng ủng hộ. Sức mạnh của thủ lĩnh là sức mạnh của quần chúng. Vai trò tích cực của thủ lĩnh được thể hiện ở những điểm sau: - Do nhận thức đúng yêu cầu phát triển của xã hội và khả năng hiện có, thủ lĩnh có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực mà họ chính là linh hồn của hệ thống đó, hướng hệ thống quyền lực phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội, giai cấp, góp phần tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển. - Cùng đội tiên phong của giai cấp, thủ lĩnh chính trị lôi kéo, tập hợp quần chúng, thuyết phục, giáo dục và phát huy sức mạnh của quần chúng trong đấu tranh chính trị nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, phù hợp với nhu cầu xã hội và lợi ích giai cấp. - Thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc, do có khả năng nhìn xa trông rộng lãnh đạo không chỉ có khả năng tổ chức, tập hợp lực lượng, lãnh đạo phong trào mà còn có khả năng đưa phong trào vượt qua những khúc quanh co của lịch sử, thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị đã đề ra. - Thủ lĩnh chính trị có vai trò thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại hiệu quả cao cho phong trào cách mạng, cho hoạt động của quần chúng. b. Ảnh hưởng tiêu cực: Thông thường, ảnh hưởng tiêu cực của thủ lĩnh chính trị là do vị thế của giai cấp sản sinh ra thủ lĩnh chính trị quyết định. Tuy nhiên, ở giai cấp tiến bộ cũng có trường hợp, do người lãnh đạo thiếu tài, kém đức, hoặc có tài nhưng kém đức, cá nhân chủ nghĩa, chuyên quyền độc đoán, nên không có khả năng nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo quy luật khách quan, hoặc nhận thức đúng mà hoạt động trái với quy luật khách quan, trái với lợi ích của quần chúng, đi ngược với xu thế của thời đại. Trong trường hợp này, vai trò của người thủ lĩnh kìm hãm sự phát triển của lịch sử. Ảnh hưởng tiêu cực của thủ lĩnh chính trị thể hiện ở những điểm sau: - Do thiếu tài, kém đức nên không có khả năng lãnh đạo phong trào, không biết “chớp thời cơ, vượt thử thách” để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đặt ra, đặc biệt, trước những bước ngoặt của lịch sử thường tỏ ra bối rối, dao động, thậm chí trở nên phản động, lái phong trào đi ngược lại lợi ích của quần chúng. - Người thủ lĩnh không xuất phát từ lợi ích chung mà vì quyền lợi riêng, động cơ không trong sáng nên thường gây bè phái chia rẽ, mất đoàn kết trong hệ thống tổ chức quyền lực, làm suy giảm vai trò, sức mạnh của tổ chức, hạn chế, ngăn cản khả năng của mỗi cá nhân, làm giảm hiệu quả giải quyết những nhiệm vụ, mục tiêu của chính trị đề ra. - Do phong cách làm việc độc đoán, chuyên quyền hoặc do năng lực hạn chế của người thủ lĩnh mà nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động bị tước bỏ, nhân quyền thường bị vi phạm, phong trào cách mạng thiếu động lực và sinh khí để phát triển. - Trong điều kiện thế giới biến động đầy phức tạp như hiện nay, quyết định sai trái của “những cái đầu nóng” của các vị thủ lĩnh khiến nhân loại phải trả giá đắt, đôi khi không thể lường trước được. 8. Nội dung mối quan hệ chính trị với kinh tế? Liên hệ với đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam? Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích. Kinh tế là một phạm trù khoa học, cần được hiểu đầy đủ với những nội dung: - Kinh tế là tổng hoà các quan hệ dựa trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội nhất định. Nền tảng kinh tế được tạo bởi các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối. - Kinh tế là cái, suy cho cùng, quyết định mọi biến đổi xã hội, mọi đảo lộn chính trị. Mọi biến đổi xã hội, đảo lộn chính trị là kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế. - Kinh tếm trong mỗi chế độ xã hội, là nền kinh tế quốc dân, với đầy đủ nội dung của nó. => Thực chất của kinh tế là lợi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất gắn liền với mỗi thành viên tham gia các quá trình sản xuất và tái sản xuất, cũng như lợi ích kinh tế của mỗi tập đoàn, giai cấp và các nhóm xã hội. Quan hệ giữa chính trị và kinh tế là quan hệ cơ bản nhất của đời sống xã hội – nói một cách khái quát, là quan hệ giữa quyền lực chính trị (tập trung ở quyền lực nhà nước) đối với kinh tế với tư cách là cơ sở nền tảng của quyền lực chính trị và của toàn xã hội. Nói một cách thực chất hơn, ngắn hơn là quan hệ giữa quyền lực nhà nước với kinh tế, hướng tới sự phát triển kinh tế - xã hội, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền. 1. Bản chất mối quan hệ chính trị với kinh tế: a. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế: - Xét trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, theo Lênin, chính trị là một hienhf thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất. Nội dung quyết định hình thức, nên kinh tế quyết định chính trị. Nghĩa là, kinh tế làm nảy sinh chính trị cả với tư các là một chế độ bao gồm: thể chế chính trị, công cụ, phương tiện để thỏa mãn nhu cầu, mục đích chính trị. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định về kinh tế có một trình độ phát triển nhất định về chính trị. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị thích ứng như thế ấy. - Chính trị không đứng ngoài mục đích nào khác là hướng vào sự phát triển của kinh tế. Kinh tế là gốc của chính trị, là thước đo tính hợp lý của chính trị. Kinh tế phát triển thì chính trị tiến bộ và ngược lại, kinh tế khủng hoảng, chính trị không hợp lý cũng khủng hoảng theo. Do đó, ở thời nào cũng vậy, chính trị nếu không hướng vào giải quyết thỏa đáng các quan hệ lợi ích nhằm phát triển kinh tế, thì chính trị sẽ không có cơ sở tồn tại, sớm muộn cũng phải thay thế bởi chính trị mới tiến bộ hơn, phù hợp hơn với kinh tế. Chính trị là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế. - Kinh tế xét đến cùng là nhân tố quyết định toàn bộ lịch sử vận động của đời sống chính trị, từ lịch sử hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp đến lịch sử các chính đảng và hoạt động của các chính đảng, lịch sử hình thành các thiết chế quyền lực nhà nước. Nhân tố kinh tế có tính quyết định nhất tác động đến đời sống chính trị là hệ thống các quan hệ sở hữu. Đến lượt nó, hệ thống các quan hệ sản xuất của một xã hội khi đã thay đổi về căn bản sẽ dẫn đến thay đổi căn bản chế độ chính trị, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp chỉ là sự phản ánh các quan hệ lợi ích kinh tế, những mâu thuẫn trong các quan hệ kinh tế. Giai cấp nào nắm kinh tế thì giai cấp đó nắm quyền lực chính trị, chi phối đời sống xã hội. - Chính trị là sự phản ánh, sự biểu hiện tập trung của kinh tế, đòi hỏi chính trị và hệ thống chính trị phải mang trong nó những quy định kinh tế khách quan. Nghĩa là trong cấu trúc, các quan hệ và phương thức hoạt động chính trị phải phù hợp với những quy định khách quan của kinh tế. Chính trị trong khi phản ánh tính tất yếu của các quy luật kinh tế không phải là bản sao thụ động của kinh tế, mà thông qua lăng kính tư duy của hệ thống chính trị. Chính trị phải mang trong nó tính quy luật kinh tế khách quan, nghĩa là, chính trị phải phản ánh trong cấu trúc của chính bản thân nó. - Trong các đường lối, chính sách của đảng cầm quyền tác động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội thì tính đúng đắn của đường lối, chính sách kinh tế giữ vai trò quyết định. Cũng trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu sự nghiệp đối mới từ tư duy lý luận về kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. b. Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế: - Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, là điều kiện tiên quyết cho những biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Điều này, hoàn toàn rõ ràng đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn giải phóng mình khỏi sự bóc lột và tha hóa bởi quan hệ tư sản và tiền tư sản, trước hết phải giành được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Chỉ sau đó họ mới có tiền đề để cải tạo quan hệ kinh tế, biến mình trở thành chủ sở hữu các tư liệu sản xuất cơ bản. Sẽ không thể có sự biến đổi và phát triển nào của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nếu như giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền nhà nước – điều kiện tiên quyết để thiết lập nền tảng kinh tế mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu. - Với tính độc lập tương đối, chính trị có tác động trở lại đối với kinh tế theo những hướng khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm. Tác động ngược lại của quyền lưc nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại: Nó có thể tác động cùng chiều hướng – khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn, nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ sau một thời gian nhất định hoặc là nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở những hướng khác. Bởi vậy, muốn để kinh tế phát triển đồng thuận với sự tác động của chính trị vào kinh tế, đòi hỏi phải quan tâm tới cả ba phương diện: đường lối chính sách kinh tế, thể chế kinh tế, và chủ thể kinh tế. - Hệ thống các quan hệ kinh tế cũng như những quan hệ kinh tế cơ bản cho chính trị thiết lập ra là cơ sở cho sự tồn tại, ổn định, bền vững của chính trị. Do đó, chính trị trước hết phải bảo vệ những thành quả kinh tế mà chính trị đã đạt được nhằm duy trì địa vị của giai cấp thống trị. Thông qua tổ chức, chức năng và những năng lực vật chất, tinh thần, chính trị nói chung và đặc biệt là nhà nước nói riêng, có thể nhận thức vượt trước so với kinh tế, có thể tiên đoán được tương lai vận động của đời sống kinh tế. Đồng thời, chính trị có thể tạo ra những nhân tố, những hình thức, những điều kiện tác động vào kinh tế, định hướng phát triển kinh tế theo những mục tiêu nhất định. - Chính trị đóng vai trò định hướng và trường chính trị - xã hội ổn định cho phát triển kinh tế. Sự định hướng chính trị thể hiện trên tất cả các khâu của quá trình phát triển kinh tế: xây dựng, thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế, định hướng quá trình tổ chức định hướng xã hội cho phát triển kinh tế để không có sự hy sinh cái này cho cái kia, và để lợi ích của giai cấp thống trị không bị vi phạm. Hơn nữa, sự ổn định chính trị là điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh, phát triển kinh tế. - Chính trị không chỉ lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát chặt chẽ những vấn đề cơ bản, then chốt của kinh tế: ngân sách, vốn, hoạt động tài chính tiền tệ, chính sách kinh tế, đối ngoại Sự lãnh đạo của chính trị đối với kinh tế không chỉ mang tính định hướng, tạo sự ổn định cho phát triển kinh tế mà hơn nữa chính trị còn tham gia quản lý nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. => Quan hệ giữa chính trị và kinh tế là mối quan hệ cơ bản, nhạy cảm và phức tạp trong các quan hệ xã hội. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần phải tránh cả hai khuynh hướng sai lầm: tuyệt đối hóa kinh tế và tuyệt đối hóa chính trị. Đi theo hướng thứ nhất, kinh tế sẽ phát triển tự phát, vô chính phủ. Đi theo hướng thứ hai, nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng áp đặt, không theo quy luật khách quan. Nhưng nếu đồng nhất chính trị với kinh tế thì sẽ làm chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều. Thực chất của sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tạo môi trường xã hội ổn định, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và định hướng phát triển. Sự phát triển xã hội còn đòi hỏi phải có sự ưu tiên của chính trị đối với kinh tế, phải có giải pháp chính trị để phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển thì chính trị càng phải mở rộng, đổi mới, tạo tiền đề tiên quyết cho kinh tế phát triển. 9. Văn hoá chính trị: Khái niệm, chức năng, phương hướng. Trả lời Khái niệm văn hóa chính trị Văn hóa: là trình độ phát triển lịch sử nhất định của xã hội, trình độ phát triển năng lực và khả năng sáng tạo của con người biểu hiện bằng các phương thức tổ chức đời sống xã hội và hoạt động của con người cũng như toàn bộ những giá trị tinh thần và vật chất do loài người sáng tạo nên trong tiến tình lịch sử vì lẽ sinh tồn và mục đích cuộc sống. Văn hóa chính trị : là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc biệt văn hoasaa của loài người trong xã hội có giai cấp, là trình độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn gái trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiên bộ xã hội. Tổ chức và quản lý xã hội Định hướng, điều chỉnh các hành vi của con người và các quan hệ xã hội Đẩy mạnh xã hội hóa về chính trị, làm cho mọi công dân quen với hoạt động chính trị Cổ vũ, động viên, thúc đẩy hoạt động sáng tạo của con người, hình thành nhân cách công dân, nhân cách các nhà lãnh đạo chính trị 3.Phương hướng giáo dục : Thử nhất, Công tác giáo dục văn hóa chính trị hướng vào đổi mới tư duy , nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, trau dồi đạo đức, rèn luyện hành vi có văn hóa. Thứ hai, Giáo dục văn hóa chính trị hướng vào xây dựng và thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển đồng bộ kinh tế, chính trị, văn hóa, con người. Thứ ba, Giáo dục văn hóa chính trị hướng vào việc đổi mới, kiện toàn hệ thồng chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo chính trị duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam, vai trò trụ cột của Nhà nước trong hệ thồng chính trị, thực hiện tốt các chữ năng quản lý xã hội, phât huy vai trò cảu các tổ chức chính tị-xã hội trong việc lôi cuốn nhân dân lao động vào việc xây dựng và phát triển văn hóa chính trị. 4.Liên hệ vớiViệt Nam Sự hình thành văn hóa chính trị Việt Nam Cơ sở hình thành văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay Vai trò của văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay 10. Khái niệm, cấu trúc của chính trị quốc tế đương đại. Trả lời : 1.Khái niệm: là nền chính trị được triển khai trên quy mô toàn thế giới được cấu thành bởi các quốc gia có độc lập chủ quyền và các tổ chức kinh tế-chính tri, quân sự-chính trị quốc tế 2.Sự hình thành thời kỳ trước chiến tranh lạnh: hình thành các nhà nước- dân tộc. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai: trật tự thế giới hai cực Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và sự ta rã các nước Đông Âu (1989-1991): trật tự thế giới đa cực Nền chính trị quốc tế đương đại là nền chính trị quốc tế được hình thành bởi sự tương tác của các quốc gia dân tộc có chủ quyền, các nhà nước-dân tộc, các tổ chức quốc tế, các cường quốc. Đó là trật tự thế giới đa cực 3.Cấu trúc của chính trị quốc tế đương đại Các nhà nước- dân tộc Các tổ chức quốc tế: Liến hiệp quốc; NATO; ASEAN; NGƯỜI BIÊN SOẠN Nguyễn Xuân Phong
File đính kèm:
- van_de_on_tap_mon_chinh_tri_hoc_dai_cuong.doc