Vai trò phản biện của báo chí và dư luận xã hội
1. Đặt vấn đề
Tiếp cận từ quan điểm hệ thống, báo chí là một tiểu hệ thống thành
viên của hệ thống xã hội trong tổng thể, tồn tại và hoạt động chịu sự tác
động, chi phối của hệ thống xã hội cũng như các tiểu hệ thống khác,
thông qua các mối quan hệ ràng buộc, chi phối lẫn nhau trong cùng hệ
thống và trong các điều kiện lịch sử xác định. Trong các quan hệ ấy, mối
quan hệ giữa báo chí và dư luận xã hội (DLXH) luôn có ý nghĩa khoa
học – thực tiễn đặc biệt, được giới khoa học xã hội học, chính trị học
cũng như hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội thường xuyên chú ý
trong sự quan tâm đặc biệt từ các phương diện và mục đích khác nhau.
Trong lý luận và thực tiễn báo chí hiện đại, mối quan hệ của báo chí và
DLXH cũng là một trong những vấn đề có vị trí nền tảng và vai trò trung
tâm, thu hút tâm lực của các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà lãnh đạo,
quản lý cũng như hoạt động tác nghiệp thường ngày của nhà báo.
Bài viết này góp phần bàn luận về phản biện xã hội của báo chí và dư
luận xã hội trên cơ sở cách tiếp cận mới về dư luận xã hội; từ đó ta có cái
nhìn rõ hơn về mối quan hệ gắn bó giữa báo chí và dư luận xã hội trong
xã hội hiện đại.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò phản biện của báo chí và dư luận xã hội
điểm của Đảng CSVN “lấy dân làm gốc”, là tư tưởng về nhà nước dân chủ nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo đó, giám sát và phản biện xã hội bằng và thông qua báo chí thể hiện sinh động nhất của việc phát huy dân chủ xã hội và “quyền lực nơi dân”13. Dân chủ, theo Hồ Chí Minh, “Dân chủ có nghĩa là để cho người dân được mở mồm ra nói”14 Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”. Chẳng hạn, trước Tết Nguyên đán năm 2010, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên đã gửi thư cho Bộ Chính trị và Thủ tưởng Chính phủ, phản đối về việc nhiều tỉnh cho doanh nghiệp nước ngoài thuê rừng, nhưng mãi cuối tháng 2 năm 2010, báo chí mới thông tin và từ đó, hình thành tâm trạng bất an và lo âu, dư luận phản đối gay gắt vấn đề này. Nhờ đó, Thủ tướng Chính phủ đã cho kiểm tra, ra chỉ thị cho các tỉnh tạm dừng ngay việc cho công ty nước ngoài thuê rừng, đồng thời chấm dứt việc làm bất lợi này. Vấn đề khai khoáng tràn lan, bừa bãi ở Cao Bằng, chỉ sau loạt bài điều tra của Vietnamnet mới khơi nguồn dư luận phản đối, phẫn nộ về chủ trương và cách làm của Cao Bằng. Từ dư luận xã hội về những vấn đề này, diễn đàn trong và ngoài Hội trường của kỳ họp Quốc hội cũng nóng lên “vấn đề "loạn" khai thác khoáng sản gây thất thoát tài sản quốc gia; doanh nghiệp "chạy" dự án, địa phương quản lý lỏng, còn Trung ương "buông" đã làm "nóng" cả trong và ngoài Hội trường trong ngày thảo luận kinh tế - xã hội hôm nay (27/5)”15. Rõ ràng là báo chí không lên tiếng, không xã hội hóa các sự kiện thời sự đang diễn ra liên quan mật thiết đến lợi ích cơ bản, lợi ích sống còn của cộng đồng dân cư hay của nhân dân nói chung, thì công chúng và 13 Trích từ câu nói của Hồ Chí Minh. 14 Trích lại Tuổi trẻ online ngày 12.2.2006. 15 Vietnamnet: chinh-sach-912742/ Cập nhật lúc 19:29, Thứ năm, ngày 27/05/2010 (GMT+7). Vai trò phản biện 39 nhân dân khó có thể biết, nên không thể bày tỏ thái độ, phán xét hay đánh giá kịp thời về các sự kiện và vấn đề ấy. Nói cách khác, báo chí không khơi nguồn thì khó có thể bùng lên dư luận xã hội về những vấn đề quốc kế dân sinh. Phản biện bằng báo chí, thông qua báo chí và DLXH là cách làm công khai, minh bạch, có thể giúp ngăn ngừa và hạn chế lạm dụng quyền lực trong bối cảnh thiếu vắng sự giám sát độc lập. Bởi vì, nếu không ngăn chặn, hạn chế được việc lạm dụng quyền lực, sẽ dẫn đến tha hóa quyền lực và tha hóa chế độ xã hội. Do đó, trong xã hội hiện đại, vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí và DLXH ngày càng gia tăng, ngày càng có ý nghĩa quan trọng đặt biệt. 4. Một số yếu tố tác động đến chất lượng phản biện xã hội của báo chí và dư luận xã hội Thứ nhất, không ngừng mở rộng tính công khai và dân chủ hoá đời sống xã hội, trước hết là dân chủ về kinh tế, tài chính, về công tác tổ chức - cán bộ. Tính công khai và dân chủ hoá xã hội được mở rộng đến đâu, thì vai trò, năng lực giám sát và phản biện xã hội của báo chí - DLXH tăng lên đến đấy. Bộ Chính trị TW Đảng khoá VIII đã ban hành Quy chế dân chủ cơ sở với quyết tâm chính trị là mở rộng và nâng cao chất lượng dân chủ cơ sở, nhưng trong thực tế kết quả còn chưa được như mong muốn. Mở rộng tính công khai và dân chủ hoá là một quá trình, một cuộc đấu tranh phức tạp, quyết liệt đòi hỏi bản lĩnh và văn hoá chính trị của người lãnh đạo, của bộ máy, sự kiên trì lâu dài và kiên định mục tiêu cũng như đòi hỏi bức xúc của nhân dân, của cuộc sống - của dư luận xã hội. Chống xu hướng của độc quyền, bưng bít thông tin để dung túng, chi phối và trục lợi. Chống độc quyền, hạn chế bưng bít thông tin, thực hiện dân chủ phải bằng các quy định pháp luật, đồng thời bằng cơ chế giám sát chặt chẽ nhằm hạn chế lạm dụng quyền lực. Như vậy, công khai, dân chủ không dừng lại ở khẩu hiệu chính trị suông, mà phải được bảo đảm bằng thể chế xã hội, bảo đảm hành lang pháp lý cho báo chí và DLXH thực hiện chức năng phản biện của mình. Dân chủ phải gắn với công khai thông tin, bảo đảm quyền được biết, được thông tin của nhân dân. Nhân dân có quyền được biết tổng số vay nợ nước ngoài, định hướng và hiệu quả đầu tư tiền vay cũng như tiền ngân sách; cần được công khai hiệu quả kinh doanh của các cơ sở kinh tế nhà nước, cũng như việc chi tiêu tài chính công trong các cơ quan. Chống khuynh hướng dân chủ hình thức, chiếu lệ hoặc lợi dụng “dân chủ” để trục lợi vì nhóm lợi 40 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2010 ích. Dân chủ nhân dân về nguyên tắc là thúc đẩy tự do báo chí, bảo đảm cho báo chí làm tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, trước hết là giám sát các cơ quan và cán bộ trong bộ máy công quyền và phản biện đối với các đề án hay quyết sách lớn. Chính phủ có nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì trật tự xã hội; nhưng đồng thời cũng chú ý bảo đảm thực hiện quyền được biết, quyền được thông tin của nhân dân; đồng thời đặc biệt chú ý lắng nghe, tiếp thu phản biện của báo chí và DLXH; coi phản biện xã hội là kênh thông tin quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách, chủ trương và giải pháp quản lý, điều hành của mình. Sinh thời, V. I. Lê-nin đã dùng thuật ngữ “công khai và dân chủ hóa đời sống xã hội” từ đầu những năm hai mươi của thế kỷ XX như một giải pháp đột phá mở ra một kênh thông tin quan trọng để nắm bắt ý kiến, nguyện vọng và đề xuất của nhân dân; trong đó, đặc biệt quan trọng là ý kiến của các tri thức yêu nước, các nhà khoa học tâm huyết, trí tuệ và bản lĩnh. Thứ hai, nâng cao trình độ dân trí, trước hết và quan trọng nhất là trình độ hiểu biết của dân về các văn bản quy phạm pháp luật và thể chế phân chia quyền lực của Nhà nước. Bởi vì, giám sát là giám sát bằng pháp luật, thông qua và trên cơ sở pháp luật. Trong quá trình hội nhập vào WTO, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta đã được xây dựng mới và bổ sung rất nhanh, nhưng sự hiểu biết của nhân dân về luật pháp còn rất nhiều hạn chế, ý thức chấp hành luật lại càng nhiều vấn đề. Do đó, muốn nâng cao năng lực giám sát và phản biện xã hội của mình, báo chí cần tích cực truyên truyền, giáo dục, giải thích cho nhân dân nhận thức đầy đủ và đúng đắn các chính sách và luật pháp của Nhà nước, động viên khích lệ nhân dân không chỉ tích cực thực hiện, mà còn có khả năng giám sát và phản biện quá trình thực hiện ấy. Mặt khác, cũng cần giám sát quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. Người đứng đầu cơ quan hành pháp có nên là người đứng đầu cơ quan chống tham nhũng hay cần tách ra, độc lập? Việc phân chia quyền lực thông thường chỉ thể hiện ngắn gọn trong một văn bản ngắn, thậm chí trong một câu, nhưng có thể theo đó, của cải của nhân dân tuôn chảy vào túi một nhóm người nào đó vì sự lợi dụng và trục lợi do quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ. Việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ am hiểu luật pháp của nhân dân liên quan chặt chẽ đến vai trò giám sát của đại biểu Quốc hội và của Quốc hội nói chung. Cần phải có cơ chế để Quốc hội không chỉ có tiếng, mà còn phải có quyền và cần sử dụng quyền của mình để bảo vệ lợi ích của nhân dân, của đất nước. Cần nâng Vai trò phản biện 41 cao năng lực và quyền lực giám sát của Quốc hội, kết hợp chặt chẽ với giám sát và phản biện xã hội của báo chí và DLXH. Cần quán triệt mục đích, nguyên tắc, phương thức phản biện và xây dựng văn hóa phản biện, cũng như văn hóa và bản lĩnh tiếp nhận phản biện, nhằm tạo sự đồng thuận xã hội trong quá trình tranh luận - phản biện xã hội. Thứ ba, không ngừng nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức và văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy công quyền các cấp, như dư luận xã hội đặt ra, không chỉ nâng cao dân trí mà còn phải nâng cao quan trí. Thái độ trách nhiệm của cán bộ công chức đối với các vấn đề báo chí và dư luận xã hội nêu ra không chỉ thể hiện trách nhiệm pháp lý trước nhân dân, trước Đảng, mà còn thể hiện văn hoá chính trị, đạo đức, lối sống và lương tâm của con người. Văn hoá chính trị không chỉ là một đòi hỏi chung chung, mà cần có quy định cụ thể và một định chế bắt buộc thực hiện, có sự giám sát của nhân dân, của báo chí và DLXH. Thời gian gần đây, báo chí lại thông tin về tranh luận xung quanh đồng ý hay không đồng ý xây dựng trục giao thông Hồ Tây – Ba Vì giữa thành phố Hà Nội và Bộ Xây dựng trước khi trình Thủ tướng Quy hoạch Thủ đô, cũng đã nảy sinh vấn đề văn hóa tranh luận. Cũng cần nhận thức rằng, chúng ta nên làm quen với việc phê phán hay chỉ trích trước một vấn đề, chứ không chỉ quen với việc ca ngợi và tán dương không thực chất. Thứ tư, không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý, xây dựng Nhà nước pháp quyền, tích cực làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội bằng thể chế phân chia quyền lực một cách khoa học, chặt chẽ, có cơ chế kiểm soát và giám sát quyền lực để chống lạm dụng quyền lực; chống bao biện làm thay, thậm chí tranh nhau làm, nhưng khi có sự cố lại chẳng ai chịu trách nhiệm cụ thể. Đảng ta chủ trương thực hiện tốt dân chủ và kiểm soát được quyền lực để chống tiêu cực, để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước phồn vinh, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đây là điều mong muốn cháy bỏng của nhân dân xuất phát từ những bài học lịch sử của đất nước trong những năm đổi mới và truyền thống văn hoá của dân tộc ta; cũng như từ những bài học lịch sử của sự sụp đổ Liên Xô. Chừng nào chưa có được một cơ chế chống lạm dụng quyền lực một cách hữu hiệu, quyền được biết, được thông tin của nhân dân chưa thực sự được tôn trọng..., thì vai trò giám sát, phản biện xã hội của báo chí và DLXH, của nhân dân sẽ còn bị hạn chế và đương nhiên năng lực lãnh đạo của Đảng 42 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 5/2010 sẽ không được phát huy và niềm tin của nhân dân không những bị xói mòn, mà còn tiềm ẩn những nguy cơ ngoài mong đợi. Thứ năm, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, năng lực tác nghiệp, đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp cũng như cải thiện điều kiện làm việc cho đội ngũ nhà báo. Nhà báo phải là những người cần có trình độ, am hiểu cuộc sống, nhất là pháp luật- như sự hiểu biết, kinh nghiệm vận dụng và năng lực phân tích sự kiện và vấn đề pháp lý. Họ là những người có năng lực tác nghiệp thành thạo trong môi trường pháp lý, có bản lĩnh hành nghề trong những điều kiện phức tạp của kinh tế thị trường - khả năng tiếp cận nguồn tin, năng lực điều tra, thu thập và phân tích sự kiện pháp lý... Nhà báo thường hoạt động độc lập, đơn tuyến, nên ở họ cần phẩm chất đạo đức trong sáng. Cùng với đòi hỏi về trình độ, năng lực chuyên môn - bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất chính trị và đạo đức, cần trang bị cho các nhà báo những phương tiện kỹ thuật - nghiệp vụ hiện đại, cơ chế cung cấp thông tin... để họ có thể tác nghiệp thuận lợi trong quá trình thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập với thế giới. Quốc hội vừa thông qua Luật Phòng chống tham nhũng, theo đó, trao cho báo chí nhiều quyền hơn trong việc tiếp cận và khai thác thông tin phục vụ hoạt động điều tra của phóng viên. Cũng cần có hành lang pháp lý, có chế tài tạo điều kiện và bảo vệ nhà báo tác nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường diễn biến ngày càng phức tạp. Coi việc sử dụng báo chí - truyền thông và DLXH như một công cụ hữu ích nhất, nhằm thực hiện giám sát và phản biện xã hội, trong việc mở rộng tính công khai và dân chủ hoá đời sống xã hội, trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế - xã hội là một trong những phương thức và giải pháp tối ưu hiện nay. Cần coi báo chí - truyền thông không chỉ là diễn đàn rộng rãi để mọi người dân bày tỏ chính kiến, bàn luận những vấn đề quốc kế dân sinh, mà còn là công cụ thể hiện và trường học nâng cao năng lực, trình độ dân trí về dân chủ và công khai, minh bạch cũng như công cụ tập hợp, tổ chức, huy động DLXH trong cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội của báo chí - DLXH, tức là báo chí thể hiện tính độc lập của mình. Tính độc lập không có nghĩa là độc lập với chính trị - điều đó không bao giờ có. Báo chí và truyền thông là một công cụ thể hiện quyền lực chính trị. Tính độc lập ở đây có nghĩa là, khi thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội Vai trò phản biện 43 của báo chí - DLXH, nhà báo không “theo đuôi”, nghe một cách thụ động, một chiều; phải coi trọng kết quả khai thác, điều tra độc lập của mình từ tai mắt của nhân dân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những thông tin và các dữ liệu mà mình điều tra được. Đảng và Nhà nước cũng cần những chứng cứ độc lập để phản biện chính sách, để đấu tranh chống tiêu cực, làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế - xã hội, trên cơ sở ấy có thể góp phần gây dựng và củng cố lòng tin của nhân dân vào bộ máy công quyền và chế độ xã hội. Thực tế phản biện xã hội của báo chí trong kỳ họp Quốc hội vừa qua đã chứng minh điều đó. Trong quá trình hoạt động, báo chí thực hiện tốt, có hiệu quả chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình, tức là góp phần tích cực vào tính bền vững của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, đó cũng là giải pháp quan trọng tham gia xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia ở trong nước và nhất là trên trường quốc tế trong thời kỳ hội nhập và phát triển bền vững./. ____________________ Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. 2. Mấy vấn đề về DLXH ở nước ta hiện nay (1989); Viện Dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo TW; Hà Nội. 3. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (1999); Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới Nxb. Chính trị quốc gia; Hà Nội. 4. Nguyễn Quý Thanh (2005), Xã hội học về dư luận xã hội; Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội 5. Tạp chí Xã hội học (Viện Xã hội học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam). 6. Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông (Học viện Báo chí và Tuyên truyền). 7. Nguyễn Văn Dững (1994), Báo chí và dư luận xã hội – các hình thức của mối quan hệ tác động; Luận án tiến sĩ báo chí; MGU. 8. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2000); Báo chí – Những điểm nhìn từ thực tiễn, tập 2, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 9. M. K. Garơskôp: Dư luận xã hội; M., Nxb. Chính trị, 1988. (Bản tiếng Nga). 10. Tạp chí Những vấn đề triết học (LB Nga); số 11/1983. 11. Paul Chanlter-Peter Stewart, Basic Radio Journalism, Focal Press, 2004. 12. Robert L. Hilliard, Writing for Television, Radio and New Media, 8th edition, Thomson, Australia, Canada, Mexico, 2004. 13. James Glen Stovall, Web Journalism, Pearson, the USA, 2004. 14. Jonathan Bignell, An Introduction to Television Studies, Routledge, London and New York, 2004. 15. Một số báo in và báo mạng điện tử.
File đính kèm:
- vai_tro_phan_bien_cua_bao_chi_va_du_luan_xa_hoi.pdf