Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với công tác giám sát của Quốc hội
Công cuộc đổi mới và tiến trình dân chủ hóa đời sống chính trị - Xã hội ở nước ta trong thời gian qua đã đem lại những thành tựu rất đáng khích lệ. Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử trước hết là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội ngày càng được triển khai mạnh mẽ nhằm đảm bảo mọi hoạt động của Nhà nước và công dân theo Hiến pháp và pháp luật, trong đó chú trọng tính công khai minh bạch của nền tài chính công và tài sản công. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội thời gian qua chính là Kiểm toán nhà nước (KTNN) - công cụ kiểm tra tài chính nhà nước hữu hiệu phục vụ Quốc hội giám sát hoạt động kinh tế, tài chính quốc gia
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với công tác giám sát của Quốc hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với công tác giám sát của Quốc hội
ịnh của pháp luật. - Các thông tin kiểm toán khác. Ngoài việc cung cấp thông tin bằng cách gửi báo cáo kiểm toán, KTNN còn báo cáo, giải trình, cung cấp tài liệu, nghiên cứu và trả lời các kiến nghị theo yêu cầu của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội trước Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội về NSNN và quyết toán NSNN. Những thông tin này hỗ trợ đắc lực cho các cơ quan của Quốc hội giám sát, thẩm tra quyết toán NSNN. 3. Giải pháp cụ thể về nâng cao vai trò của kTNN trong hoạt động giám sát của Quốc hội 3.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý Hoàn thiện hành lang pháp lý để thực hiện nhiệm vụ của KTNN trong lập và quyết toán NSNN theo Nghị quyết số 343/2017/NQ-UBTVQH14 ngày 19/01/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định lập, thẩm tra, quyết định kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia, kế hoạch đầu tư công trung hạn 05 năm quốc gia, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm quốc gia, dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW và phê chuẩn quyết toán NSNN hàng năm; sớm nghiên cứu, bổ sung sửa đổi một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước 2015 trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2019) và thông qua vào Kỳ họp thứ 8. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi quy trình kiểm toán quyết toán NSNN cho phù hợp với quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và Luật Ngân sách nhà nước. 3.2. Nâng cao chất lượng kết quả kiểm toán NSNN của KTNN Thứ nhất, thay đổi cách thức tiếp cận kiểm toán NSNN theo hướng đạt được mục tiêu kiểm toán xác nhận báo cáo quyết toán Kinh nghiệm của thế giới cho thấy mục tiêu kiểm toán NSNN phải được xác định toàn diện, phù hợp với chức năng của KTNN, gồm mục tiêu kiểm toán tuân thủ, kiểm toán tài chính và kiểm toán hoạt động. Các mục tiêu này về cơ bản có vai trò như nhau. Tuy nhiên, tùy từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà cơ quan kiểm toán tối cao các nước xác định mục tiêu ưu tiên của mình trên cơ sở từng đối tượng kiểm toán. Hiện nay, cả 3 mục tiêu trên đều được thể hiện trong kiểm toán NSNN, nhưng kết quả thực tế cho thấy các cuộc kiểm toán NSNN được KTNN thực hiện cơ bản mới đạt được mục tiêu kiểm toán tuân thủ. Việc đạt được mục tiêu kiểm toán tuân thủ và kéo dài trong nhiều năm khiến nhiều KTVNN lầm tưởng đây là mục tiêu chính của kiểm toán NSNN, từ đó sao nhãng, không coi trọng các mục tiêu khác. Trong kế hoạch trung hạn, KTNN cần quyết tâm đạt mục tiêu kiểm toán tài chính (xác nhận báo cáo quyết toán ngân NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN10 Số 142 - tháng 8/2019 sách), trên cơ sở hoàn thành mục tiêu kiểm toán tuân thủ và quan tâm đến kiểm toán hoạt động. Thứ hai, tiếp tục mở rộng quy mô kiểm toán NSNN để thực hiện kiểm toán được nhiều hơn nguồn tài chính công, tài sản công Ngoài các đơn vị tham mưu, sự nghiệp, KTNN hiện có 8 KTNN chuyên ngành và 13 KTNN khu vực. Nếu so với các bộ, ngành hay cơ quan trung ương khác, quy mô bộ máy như vậy là khá khiêm tốn, nhưng lại rất đáng kể khi so với bản thân KTNN, bởi trong những năm đầu mới thành lập bộ máy tổ chức của KTNN chỉ có 05 đơn vị là Văn phòng KTNN và 04 KTNN chuyên ngành. Cùng với sự hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức, đội ngũ KTV cũng có sự gia tăng nhanh chóng. Hiện cơ quan KTNN đã có hơn 1.700 Kiểm toán viên nhà nước (KTVNN). Tần suất kiểm toán đơn vị sử dụng ngân sách nhờ đó được tăng lên. Đến nay, hầu hết các bộ, Cơ quan Trung ương, địa phương, các tổ chức kinh tế lớn có vốn của Nhà nước được kiểm toán ít nhất 2 năm một lần (riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được kiểm toán hằng năm). Tuy có sự phát triển như vậy, nhưng quy mô kiểm toán vẫn còn nhỏ so với nhu cầu công việc. Hiện cả nước có khoảng 300.000 đơn vị sử dụng NSNN, gần 11.200 xã, 710 huyện và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đây là đối tượng của kiểm toán NSNN. Hằng năm, KTNN chưa thực hiện kiểm toán ngân sách được toàn bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, và tại mỗi địa phương chỉ kiểm toán được một phần nhỏ ngân sách cấp huyện; tỷ lệ số xã được kiểm toán còn ít hơn. Quy mô kiểm toán như vậy ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kiểm toán NSNN cung cấp cho Quốc hội do chưa phản ánh được toàn bộ tình hình quản lý, sử dụng NSNN. Chính vì vậy, cùng với nỗ lực đạt mục tiêu xác nhận báo cáo quyết toán NSNN của các đơn vị được kiểm toán thì KTNN cần xây dựng chiến lược và thực thi các giải pháp tích cực phát triển đội ngũ KTVNN đủ về số lượng và cao về trình độ chuyên môn để mở rộng quy mô kiểm toán NSNN hàng năm. Từ đó, nâng cao chất lượng thông tin kiểm toán NSNN do phản ánh được đầy đủ và chính xác hơn tình hình quản lý, sử dụng NSNN. Thứ ba, tăng cường năng lực phân tích NSNN của đội ngũ KTVNN Kiến thức chuyên môn, kỹ năng làm việc và đạo đức nghề nghiệp của các KTVNN là nhân tố quyết định giá trị của KTNN và nâng cao chất lượng kiểm toán. Với xu hướng tăng cường kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực NSNN, nhiệm vụ của KTVNN không dừng lại ở việc xác nhận tính đúng đắn, chính xác của số liệu, mà còn cần đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực của việc sử dụng nguồn lực tài chính, tài sản công để từ đó chỉ ra các lý do dẫn đến tình trạng của đơn vị được kiểm toán và đưa ra các khuyến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động. Yêu cầu đó đặt ra cho KTVNN ngoài có kiến thức về kế toán, kiểm toán, cần nắm vững kiến thức kinh tế - tài chính tổng hợp, vĩ mô, và có khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá và dự báo. Bên cạnh đó, KTNN cũng nên quy hoạch (về chuyên môn) xây dựng đội ngũ chuyên gia về lĩnh vực NSNN. Các chuyên gia là mũi nhọn giao lưu, trao đổi chuyên môn với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội, các cơ quan Tài chính, Thuế, Kho bạc, Hải quan... Qua đó, vừa khẳng định tầm cao chuyên môn của KTNN, vừa cung cấp thêm thông tin cho các cơ quan chức năng trong việc giám sát, thẩm định quyết toán NSNN của đội ngũ KTVNN. Cùng với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế về kiểm toán NSNN, tăng cường giao lưu KTV, chia sẻ kinh nghiệm và phương pháp kiểm toán NSNN tiên tiến, hiệu quả của thế giới. Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán NSNN Bên cạnh áp dụng các phương pháp kiểm toán mới, tiên tiến của thế giới, KTNN cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán lĩnh vực NSNN để phù hợp với sự thay đổi của môi trường công việc tại các đơn vị được kiểm toán. Nên sớm hoàn thiện hệ thống thông tin điện tử lưu trữ các thông tin cơ bản về đơn vị sử dụng NSNN, tình hình thực hiện kiểm toán các năm trước, các vướng mắc, kiến nghị, đề xuất và kết quả thực hiện kiến nghị đề xuất của KTNN. Việc thiết kế mẫu biểu kiểm toán trực tuyến và phần mềm NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 11Số 142 - tháng 8/2019 thực hành cài đặt trực tiếp trên máy tính làm việc của KTVNN cũng nên được tính đến và thí điểm áp dụng nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp cho đội ngũ KTVNN và tăng cường khả năng kiểm tra, giám sát của các đơn vị chức năng. 3.3. KTNN tiếp tục đa dạng hóa phương thức và hình thức cung cấp thông tin kiểm toán cho Quốc hội Ngoài đáp ứng yêu cầu chính xác, trung thực, khách quan, thông tin kiểm toán cần được cung cấp một cách kịp thời, đầy đủ và có tính hệ thống cho Quốc hội. Tính dễ tiếp cận để khai thác, sử dụng cũng phải được đề cao. Bên cạnh báo cáo kiểm toán toàn văn, KTNN nên có báo cáo kiểm toán tóm tắt và bản trình bày về những điểm quan trọng mà KTNN phát hiện trong quá trình kiểm toán cùng với các kết luận, kiến nghị kiểm toán. Hình thức cung cấp thông tin kiểm toán cũng cần được đa dạng và phù hợp với điều kiện thực tiễn. Trong bối cảnh hiện nay nên tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để truyền tải các kết quả kiểm toán. Cùng với các hình thức cung cấp thông tin kiểm toán đang áp dụng, KTNN có thể nghiên cứu để vận dụng hình thức gửi thông tin kiểm toán cho các đại biểu Quốc hội qua hòm thư điện tử để các cơ quan giúp việc cho Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thuận tiện trong việc khai thác, sử dụng. Hình thức gửi thông tin kiểm toán thông qua hòm thư điện tử cũng đã được áp dụng tại khá nhiều nước (ví dụ Kiểm toán nhà nước Hoa Kỳ - GAO) và thực tiễn cho thấy đã phát huy hiệu quả tích cực. Tuy vậy, khi vận dụng hình thức này cần có các biện pháp kỹ thuật để đảm bảo tính bảo mật của thông tin kiểm toán. 3.4. Tăng cường hoạt động cung cấp thông tin của KTNN cho Quốc hội Thứ nhất, đẩy mạnh hoạt động cung cấp thông tin của KTNN cho Quốc hội Để việc cung cấp thông tin của KTNN cho Quốc hội sát thực hơn với tình hình hoạt động của NSNN, KTNN cần phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Tài chính, Ngân sách và các Ủy ban khác của Quốc hội trong hoạt động thẩm tra, giám sát NSNN và các vấn đề có liên quan đến tài chính - ngân sách. Ngoài việc gửi báo cáo kiểm toán ngân sách các địa phương, các bộ, Cơ quan Trung ương cho Ủy ban Tài chính, Ngân sách khi phát hành; gửi cho Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội theo yêu cầu; hay với các cuộc kiểm toán theo yêu cầu, ngoài việc gửi báo cáo cho cơ quan yêu cầu có thể gửi báo cáo cho Ủy ban Tài chính, Ngân sách để Ủy ban có thể hiểu rõ hơn tình hình hoạt động của KTNN, thì KTNN cần được mời tham gia các phiên họp toàn thể của Ủy ban Tài chính, Ngân sách, tham gia các phiên họp toàn thể của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban khác đối với các vấn đề có liên quan đến tài chính - ngân sách. KTNN sẽ có ý kiến về mặt chuyên môn với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất về các vấn đề được thảo luận trước Ủy ban. Với các cuộc giám sát của Ủy ban Tài chính, Ngân sách, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban khác của Quốc hội, KTNN có thể cử cán bộ, KTV tham gia các đoàn giám sát theo yêu cầu của Quốc hội; thực hiện cơ chế thảo luận về kết quả kiểm toán đối với các bộ, ngành, địa phương trong Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Tài chính, Ngân sách và các Ủy ban khác của Quốc hội với sự tham gia của đại diện Bộ Tài chính, KTNN và lãnh đạo đơn vị được kiểm toán trước khi thẩm tra quyết toán NSNN. KTNN và Ủy ban Tài chính, Ngân sách tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung quy chế phối hợp giữa hai cơ quan phù hợp với Luật KTNN và các văn bản pháp luật có liên quan. Một số nội dung bổ sung hoàn thiện như: - Bổ sung phạm vi phối hợp phù hợp quy định tại Khoản 9, Điều 10, Luật KTNN “Giải trình về kết quả kiểm toán với Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội theo quy định của pháp luật”. - Thúc đẩy sớm thời gian Ủy ban Tài chính, Ngân sách cung cấp cho KTNN dự kiến chương trình, kế hoạch giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tài chính, Ngân sách về lĩnh vực tài chính - ngân sách có liên quan đến lập kế hoạch kiểm toán năm, những vấn đề cần chú trọng trong Kế hoạch kiểm toán năm. - Chuẩn hóa các nội dung phối hợp phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN theo quy định của Luật KTNN. NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN12 Số 142 - tháng 8/2019 Thứ hai, tiếp tục đổi mới nội dung thông tin kiểm toán cung cấp cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Cơ chế cung cấp thông tin của KTNN cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có những điểm, những nội dung và yêu cầu khác với cơ chế thông tin của KTNN cho Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Trong các phiên họp toàn thể của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chương trình nghị sự thường kín lịch với một khối lượng công việc lớn nên các thông tin KTNN cung cấp nhằm phục vụ cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thường phải chọn lọc với những thông tin thật cần thiết, liên quan đến những vấn đề lớn về kinh tế, tài chính của Quốc gia, chẳng hạn như thông tin liên quan đến kinh tế vĩ mô, chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ... Ngoài báo cáo tóm tắt kết quả kiểm toán năm, báo cáo kết quả kiểm toán năm, báo cáo kết quả kiểm toán quyết toán NSNN, KTNN còn cần cung cấp các thông tin về kết quả kiểm toán chuyên đề cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thậm chí có những báo cáo giải trình cụ thể về một vấn đề, lĩnh vực cụ thể để Quốc hội có góc nhìn đa dạng, nhiều chiều trước khi đưa ra quyết định. 3.5. Quốc hội tăng cường cung cấp thông tin cho KTNN để xây dựng kế hoạch kiểm toán năm phù hợp với mục tiêu giám sát NSNN của từng thời kỳ Theo quy định của Luật KTNN, Tổng KTNN quyết định kế hoạch kiểm toán hằng năm của KTNN và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện. Trong quá trình triển khai kế hoạch kiểm toán, KTNN tiếp tục thực hiện nhiệm vụ kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. KTNN cũng “Xem xét, quyết định việc kiểm toán khi có đề nghị của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực HĐND, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cơ quan, tổ chức không có trong kế hoạch kiểm toán năm của KTNN”. Để nâng cao tính hữu ích của thông tin kiểm toán phục vụ cho hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội cũng cần cung cấp thông tin để giúp KTNN xây dựng kế hoạch kiểm toán và bố trí nguồn lực thực hiện kiểm toán, cụ thể: - Các thông tin về kết quả giám sát hoạt động kinh tế, tài chính của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của các cơ quan của Quốc hội. - Các yêu cầu, định hướng giám sát hay các định hướng phát triển kinh tế - xã hội, các thông tin về quản lý tài chính - ngân sách mà Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội có được trong hoạt động của mình. - Các vấn đề quan trọng, nổi cộm về NSNN mà Quốc hội, công chúng đang quan tâm. Các thông tin trên cần được cung cấp cho KTNN để KTNN đề ra định hướng, mục tiêu, nội dung kiểm toán nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Đảm bảo việc kiểm toán đi vào trọng tâm, trọng điểm, cung cấp thông tin một cách thiết thực hiệu quả, tránh việc nguồn thông tin cung cấp cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội rất nhiều nhưng sử dụng không được bao nhiêu bởi không tập trung vào những vấn đề Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cần. Tóm lại, qua 25 năm hoạt động của mình, KTNN đã góp phần quan trọng giúp cho các cơ quan nhà nước trong việc quyết định, kiểm tra, giám sát quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản công, góp phần thực hành tiết kiệm chống lãng phí, chống tham nhũng, ngày càng có vai trò to lớn trong hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của cử tri cả nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; 2. Luật Ngân sách nhà nước 2015; 3. Luật Kiểm toán nhà nước 2015; 4. Luật Tổ chức Quốc hội 2014; 5. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân năm 2015. Ngày nhận bài: 15/07/2019 Ngày duyệt đăng: 30/07/2019
File đính kèm:
- vai_tro_cua_kiem_toan_nha_nuoc_doi_voi_cong_tac_giam_sat_cua.pdf