Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với cải cách quản lý tài chính tại các trường đại học công lập
Quản lý tài chính là quản lý các hoạt động huy
động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính
bằng những phương pháp tổng hợp gồm nhiều
biện pháp khác nhau được thực hiện trên cơ sở vận
dụng các quy luật khách quan về kinh tế - tài chính
một cách phù hợp với điều kiện của tiến trình đổi
mới về kinh tế - xã hội của đất nước.
Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tài
chính là quá trình tác động của Nhà nước vào các
quan hệ tài chính nhằm phản ánh thực hiện các
mục tiêu, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội mà Nhà nước đặt ra trong từng thời kỳ.
Quản lý tài chính đồng thời là quá trình mà Nhà
nước sử dụng tài chính như là công cụ để quản lý
và điều hành nền kinh tế, hướng các quan hệ kinh
tế, các hoạt động kinh tế thực hiện, phát triển theo
ý đồ của Nhà nước
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với cải cách quản lý tài chính tại các trường đại học công lập
ông phù hợp với thực tiễn hoặc trái với quy định hiện hành. Những kiến nghị sửa đổi hay hủy bỏ văn bản quản lý đó đã góp phần làm minh bạch chính sách tài chính, minh bạch trong xác định nguồn thu, mức thu, số thu NSNN và minh bạch trong chi tiêu ngân sách. Có thể nói, các kiến nghị, đề xuất xử lý tài chính của KTNN, đã góp phần không nhỏ làm minh bạch NSNN và lành mạnh nền tài chính quốc gia. 3. Công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác (Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) ở Trung ương là đơn vị dự toán cấp I, nhận dự toán ngân sách hàng năm do Thủ tướng Chính phủ giao và thực hiện quản lý tài chính thống nhất gồm ba mảng công việc sau: (1) Lập, phân bổ, giao dự toán thu, chi NSNN cho các đơn vị trực thuộc theo quy định hiện hành; (2) tổ chức chấp hành dự toán thu, chi tài chính hàng năm theo chế độ, chính sách của Nhà nước; (3) tổ chức, thực hiện công tác kế toán, quyết toán ngân sách của cơ quan chủ quản theo quy định hiện hành. Hàng năm, căn cứ vào hướng dẫn của các Bộ, cơ quan chủ quản hướng dẫn các đơn vị trực thuộc lập kế hoạch và dự toán thu, chi ngân sách năm tài chính tiếp theo; tổ chức chấp hành dự toán thu, chi tài chính hàng năm theo chế độ, chính sách của Nhà nước; thẩm định quyết toán thu, chi ngân sách của năm tài chính vừa qua của các đơn vị trực thuộc và tổng hợp báo cáo Bộ Tài chính. Đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, khi kết thúc năm ngân sách, các đơn vị trực thuộc phải lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng vốn ngân sách trong năm; khi dự án hoàn thành, phải lập và báo cáo quyết toán công trình gửi cơ quan chủ quản thẩm định phê duyệt theo quy định của pháp luật. Các đơn vị trực thuộc có sử dụng NSNN được Nhà nước giao nhiệm vụ gắn với nguồn NSNN để thực hiện nhiệm vụ có trách nhiệm quản lý, sử dụng nguồn NSNN theo quy định của Luật NSNN. Ba mảng công việc trong quản lý tài chính tại các đơn vị trực thuộc đều hết sức quan trọng. Nếu như dự toán là phương án kết hợp các nguồn lực trong dự kiến để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra và là cơ sở để tổ chức chấp hành thì quyết toán là thước đo hiệu quả của công tác lập dự toán. Qua đó, có thể thấy ba khâu công việc trong quản lý tài chính có quan hệ mật thiết với nhau và có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sử dụng các nguồn lực nhằm hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao. Muốn vậy các đơn vị phải có sự chủ động, linh hoạt trong hoạt động đồng thời với việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực. Điều này một mặt phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, chức năng, nhiệm vụ được giao, mặt khác phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, phương thức hoạt động, cách thức tổ chức hạch toán kế toán khoa học... của mỗi đơn vị sử dụng ngân sách. 37NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 140 - tháng 6/2019 Để đảm bảo thực hiện theo đúng các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công các đơn vị cần được kiểm toán thường xuyên để trên cơ sở những phát hiện của kiểm toán, ngoài những kiến nghị xử lý tài chính, kiến nghị về quản lý, tuân thủ các quy định của pháp luật, KTNN kiến nghị với Nhà nước nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. 4. Những tồn tại bất cập trong công tác quản lý tài chính các trường đại học công lập Hiện nay, các trường đại học công lập chưa triển khai thực hiện cơ chế tự chủ theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 15/02/2015 của Chính phủ về quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (Nghị định số 16/2015/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ do chưa có văn bản hướng dẫn. Một số đơn vị mới thành lập chưa được giao tự chủ do phải chờ văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP. Một số trường đại học công lập tuy đã giao tự chủ song trên thực tế hoạt động vẫn đang tuân thủ và là đối tượng điều chỉnh của nhiều Luật, các Nghị định của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật khác nên thực tế việc tự chủ của các trường mang tính hình thức, chưa đồng bộ, về cơ sở pháp lý có những quy định chưa phù hợp với quá trình vận hành. Các trường chưa được chủ động trong việc quyết định mức thu học phí mà còn phụ thuộc vào các quy định mức trần học phí của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021, bên cạnh đó các trường bị áp lực tăng thu do NSNN cấp kinh phí thường xuyên giảm dẫn đến tình trạng thu vượt, thu sai quy định, lạm thu các khoản ngoài quy định. Do thu không đủ bù đắp chi phí nên các trường chưa thực hiện tối thiểu 5% kinh phí từ nguồn thu hợp pháp của đơn vị để đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ tại đơn vị; 3% kinh phí từ nguồn thu học phí của đơn vị để cho sinh viên và người học hoạt động nghiên cứu khoa học và 8% nguồn thu học phí hệ giáo dục chính quy của đơn vị để chi học bổng khuyến khích học tập cho sinh viên theo Nghị định số 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014 của Chính phủ quy định việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học và Quyết định số 44/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về học bổng khuyến khích học tập đối với học sinh, sinh viên trong các trường chuyên, trường năng khiếu, các cơ sở giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và Thông tư số 31/2013/TT-BGDĐT ngày 01/8/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 2 của Quyết định số 44/2007/QĐ-BGDĐT. Chi thù lao giảng dạy: Việc bố trí, sắp xếp giờ giảng tại một số trường chưa hợp lý dẫn đến có nhiều giảng viên có số giờ giảng vượt quá 300 giờ/ năm; nguyên nhân là do một số môn học chung, môn học chuyên sâu số lượng giảng viên ít trong khi số lượng sinh viên đăng ký học nhiều; đồng thời theo quy định tại Thông tư 47/2014/TT-BGDĐT số giờ định mức của giảng viên giảm so với quy định tại Quyết định 64/2008/QĐ - BGDĐT từ 10 đến 90 giờ chuẩn/năm/giảng viên trong khi khung chương trình đào tạo không thay đổi dẫn đến phát sinh tiền vượt giờ. Điều này dẫn đến một số giảng viên vượt giờ giảng, vi phạm quy định của Bộ Luật Lao động và ngược lại cũng có một số giảng viên chưa đảm bảo dạy đủ giờ chuẩn. Quản lý tài sản công: Trước đây thực hiện theo chế độ kế toán Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30/3/2006 của Bộ Tài chính về Ban hành Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp các đơn vị đã mở đầy đủ sổ theo dõi tài sản và hạch toán tăng giảm tài sản, tính hao mòn tài sản cố định (TSCĐ) theo quy định tại Thông tư số 162/2014/TT-BTC ngày 38 KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC - 25 NAÊM XAÂY DÖÏNG VAØ TRÖÔÛNG THAØNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 140 - tháng 6/2019 06/11/2014 của Bộ Tài chính. Từ năm 2018 các đơn vị thực hiện theo Thông tư số 107/2017/TT-BTC ngày 10/10/2017 của Bộ Tài chính về Hướng dẫn chế độ kế toán hành chính sự nghiệp thay thế các đơn vị Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC các đơn vị tính hao mòn, khấu hao TSCĐ phải đưa vào chi hoạt động, chi phí dịch vụ, sản xuất kinh doanh tính vào giá thành sản phẩm. Điều này dẫn đến các đơn vị có nguồn thu thấp không thể thực hiện trích tỷ lệ hao mòn, khấu hao TSCĐ quy định tại Thông tư số 45/2018/TT-BTC ngày 07/5/2018 của Bộ Tài chính (thay thế Thông tư số 162/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính) được. Về tự chủ trong quản lý và sử dụng tài sản: Các trường thực hiện cơ chế tự chủ được thực hiện liên doanh, liên kết, góp vốn liên doanh với các tổ chức, cá nhân để hoạt động dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, các văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể chưa được ban hành dễ dẫn đến nguy cơ mất tài sản, tài sản đầu tư ngoài ngành không phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo. Phân phối kết quả tài chính của các đơn vị tự chủ trong năm: Hàng năm, sau khi hạch toán đầy đủ các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp NSNN khác (nếu có) theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi thường xuyên (nếu có), đơn vị được sử dụng theo trình tự như sau: (1) Trích tối thiểu 15%- 25% để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; (2) trích lập Quỹ bổ sung thu nhập: Đơn vị được tự quyết định mức trích Quỹ bổ sung thu nhập (không khống chế mức trích); (3) trích lập Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công thực hiện trong năm của đơn vị. Điều này dẫn đến sau khi trích 15% - 25% để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp phần chênh lệch còn lại thấp, đơn vị trích Quỹ bổ sung thu nhập ít không đủ nguồn để chi thu nhập tăng thêm cho giảng viên, cán bộ viên chức, thu nhập thấp các trường sẽ không giữ được người. Hiện nay, Nhà nước đã có những chính sách ưu đãi đặc biệt khuyến khích các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ chuyển đổi hoặc thành lập doanh nghiệp khoa học công nghệ nhằm tạo đà cho doanh nghiệp phát triển để từ đó kéo theo sự phát triển các lĩnh vực khác nhờ ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Tuy nhiên, văn bản quy định về chuyển đổi hay thành lập mới của Nhà nước chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập, thủ tục rườm rà (Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần phải thuộc danh mục chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/2/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học công nghệ thì không quy định...). Ngoài ra, Luật Kế toán, Thông tư số 107/2017/TT-BTC ngày 10/10/2017 của Bộ Tài chính về Hướng dẫn chế độ kế toán hành chính sự nghiệp chưa quy định về việc các doanh nghiệp trong trường đại học thì báo cáo tài chính có được tổng hợp vào nhà trường hay không và trường đại học quản lý doanh nghiệp ở mức độ nào. Đồng thời, nếu doanh nghiệp hoạt động thua lỗ không có khả năng chi trả thì trường đại học có doanh nghiệp khoa học công nghệ sẽ chịu trách nhiệm ở mức độ, phạm vi nào. Việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh các trường đại học thực hiện theo Thông tư số 06/2018/ TT-BGDĐT ngày 28/02/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh trình độ trung cấp, cao đẳng các ngành đào tạo giáo viên; trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Theo đó, chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm được xác định bởi 03 tiêu chí: (1) Số sinh viên chính quy tính trên một giảng viên quy đổi theo khối ngành của cơ sở giáo dục; (2) diện tích sàn xây dựng trực tiếp phục vụ đào tạo; (3) nhu cầu lao động của thị trường, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Do đặc thù tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đại học này có nguồn lực sử dụng chung là giảng viên, nghiên cứu viên và một số giảng viên làm nhiệm vụ quản lý là chính nhưng vẫn tham gia giảng dạy ở các trường trong Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nhưng văn bản chưa 39NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 140 - tháng 6/2019 có quy định về việc được sử dụng nguồn lực này để tính toán xác định chỉ tiêu tuyển sinh cho các đơn vị thành viên. 5. Một số kiến nghị Để giúp công tác quản lý tài chính tại các trường đại học được hoàn thiện, thông qua các báo cáo kết quả kiểm toán, KTNN đã chỉ ra những bất hợp lý trong việc quản lý thu, chi ngân sách nhà nước, Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau: - Những kiến nghị của KTNN được làm căn cứ cải tiến quản lý, điều chỉnh các chính sách, sắp xếp lại các đơn vị, có biện pháp quản lý và sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả. - Để phù hợp tình hình phát triển kinh tế xã hội hiện nay, Nhà nước cần xem xét, sửa đổi bổ sung và xây dựng lại hệ thống các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách cho đồng bộ, thống nhất và hoàn thiện phù hợp với cơ chế tài chính của các trường đại học. Ngày 19/11/2018, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số 34/2018/QH14, các trường đại học công lập sẽ hoạt động theo cơ chế tự chủ theo quy định của Luật sửa đổi, trong đó có quy định điều kiện tự chủ về tài chính. Như vậy, các quy định về tài chính trong các trường đại học công cũng cần phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới để không là rào cản cho sự nghiệp phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh hiện nay. - KTNN cần được tham gia góp ý với các Bộ, ngành trong ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật đối với từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công; tiêu chí phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập; tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng dịch vụ của đơn vị theo ngành, lĩnh vực; hệ thống tiêu chuẩn chức danh những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập. - Ngoài ra, các biểu mẫu của KTNN khi kiểm toán nên thiết kế phù hợp với chế độ kế toán của các trường đại học đang áp dụng nhằm giúp đơn vị được kiểm toán cung cấp số liệu được thuận lợi và giảm áp lực công việc so với khối lượng công việc và thời gian thực hiện. Trên đây là một số nội dung và kiến nghị về vai trò của KTNN đối với cải cách quản lý tài chính trong các trường đại học công lập. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, công tác quản lý tài chính các trường đại học bị chi phối rất nhiều văn bản pháp lý quy định, việc hoàn thiện, thống nhất và đồng bộ các văn bản nhằm giúp các trường đại học vận hành thông suốt trên nền tảng pháp lý thống nhất là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Lao động số 10/2012/QH13 ngày 18/6/2012 của Quốc hội; 2. Luật Kiểm toán nhà nước số 81/2015/ QH13 ngày 24/6/2015 của Quốc hội; 3. Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13 ngày 24/6/2015 của Quốc hội; 4. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 của Quốc hội; 5. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp công lập; 6. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập; 7. Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về Doanh nghiệp khoa học công nghệ; 8. Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần; 9. Quyết định số 01/2016/QĐ-KTNN ngày 20/6/2016 của KTNN về ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn KTNN; 10. Tạp chí Cộng sản số ra ngày 16/6/2009: “Vai trò của KTNN trong việc nâng cao hiệu lực quản lý chi tiêu công” - Bài viết của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ. Ngày nhận bài: 30/5/2019 Ngày duyệt đăng: 3/6/2019
File đính kèm:
- vai_tro_cua_kiem_toan_nha_nuoc_doi_voi_cai_cach_quan_ly_tai.pdf