Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non
Tóm tắt. Kĩ thuật kể chuyện tương tác được sử dụng để giúp trẻ dự đoán và làm quen với
câu chuyện trước khi câu chuyện diễn ra; được sắm vai vào một nhân vật trong truyện, cùng
tương tác với giáo viên và các bạn để tạo ra một câu chuyện mới. Kĩ thuật này đóng vai trò
quan trọng trong việc phát triển khả năng tiền đọc viết cũng như năng lực tư duy, trí tưởng
tượng và sự tương tác xã hội ở trẻ mầm non.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non
c trưng văn hoá sẽ được bộc lộ, nơi bản thân mỗi từ ngữ trẻ nói ra sẽ được kiểm tra bởi rất nhiều trẻ khác ngay lập tức. Chúng ta có dịp để quan sát cách những vấn đề được giải quyết bởi những trẻ với những tính cách khác nhau, đến từ những nơi khác nhau, điều này là cần thiết đối với mỗi nhà giáo dục” [10]. Như vậy, kể chuyện tương tác chính là cơ hội để trẻ thể hiện cảm xúc của chính mình, và bộc lộ kĩ năng giải quyết vấn đề cũng như sự tương tác xã hội với bạn bè và giáo viên. 2.2.3. Kể chuyện tương tác giúp giáo viên lắng nghe những câu chuyện của chính trẻ và trẻ được diễn lại những câu chuyện ấy ngay trên sân khấu Đây là điều quan trọng nhất của kĩ thuật kể chuyện tương tác, nhưng là điều lại hay bị bỏ quên nhất trong hoạt động kể chuyện ở nhà trường mầm non Việt Nam hiện nay. Với kể chuyện tương tác, giáo viên sẽ đưa ra một câu chuyện, có thể là một gợi dẫn: “Ngày xửa ngày xưa, có một chú lợn hồng sống cùng với mẹ. Một hôm, chú đi vào rừng một mình, mà không có mẹ đi cùng. . . Và chuyện gì sẽ xảy ra?” Trẻ sẽ là người nghĩ và sáng tạo ra phần tiếp theo của câu chuyện, tự xâu chuỗi và diễn lại chính vở kịch đó trong không gian của sân khấu - lớp học. Hoặc, trẻ được nghĩ một kết thúc mới cho câu chuyện mình đã biết. Hoặc cao hơn, giáo viên sẽ chỉ đưa ra một chủ đề, và trẻ sẽ tự nghĩ ra câu chuyện của riêng mình. Nhiệm vụ của giáo viên là lắng nghe, ghi lại từng từ, từng câu của trẻ vào một tờ giấy, đọc to lại cho trẻ nghe để thử xem trẻ có đồng ý hay sửa chữa gì thêm, và đề nghị trẻ diễn lại câu chuyện ấy trên sân khấu - lớp học. Đó chính là nội dung chính của kĩ thuật Helicopter mà Vivan Paley (1990) đã khởi xướng. Tác giả đã đề cập đến kĩ thuật này sau thời gian dài ghi âm lại và phân tích những cuộc nói chuyện của trẻ với bạn bè và giáo viên, cũng như những câu chuyện trẻ kể. Những 177 Phạm Minh Hoa câu chuyện của từng trẻ có thể được xâu chuỗi một cách tự nhiên với nhau: “- Bạn Joseph rất thích làm một chiếc máy bay lên thẳng, và bạn ấy kể câu chuyện về máy bay lên thẳng. Bạn Anna rất thích làm gấu mẹ, và bạn ấy kể câu chuyện về một chú Gấu Mẹ. Anna, con có thích một chiếc máy bay lên thẳng xuất hiện trong câu chuyện của con không? - Con đồng ý, nhưng con muốn Joseph sẽ là một máy bay lên thẳng chở một con gấu con. - Joseph, con có đồng ý không? - Con đồng ý” [12; 35]. Đó là những câu hỏi mà chính Paley đã hỏi các bạn nhỏ trong lớp học của mình, là cách bà gợi dẫn cho trẻ về cách thức làm bạn cũng như những tương tác xã hội cần thiết. Những giờ kể chuyện (story time) thực sự được triển khai dưới dạng những đoạn hội thoại có kết thúc mở (open-ended dialogue) mà chỉ “tác giả và những diễn viên là biết câu trả lời” [12; 37]. Chính điều này sẽ thu hút sự chú ý, trí tưởng tượng và phát triển năng lực ngôn ngữ cũng như tư duy ở trẻ. Và đây là một câu chuyện được ghi lại trong lớp học do chúng tôi triển khai dành cho trẻ mầm non. Từ một câu chủ đề được đưa ra: Cô giáo nhìn thấy gì? (Đây là lời thoại trong truyện “Gấu Nâu ơi, Gấu Nâu ơi, bạn nhìn thấy gì?” (Brown Bear, Brown Bear, what do you see?) các bạn nhỏ đã triển khai thành rất nhiều ý tưởng: - Cô giáo thấy bạn Quốc Anh. - Bạn Quốc Anh nhìn thấy gì? - Bạn Quốc Anh nhìn thấy một cái quạt. - Cái quạt nhìn thấy gì? - Cái quạt nhìn thấy cơn gió. - Cơn gió nhìn thấy gì? - Cơn gió nhìn thấy con chim đang bay. . . Cô trợ giảng sẽ ghi lại những câu hỏi và câu trả lời ấy, và sau đó, các bạn nhỏ sẽ cùng được nghe lại câu chuyện của chính mình, và diễn lại những nhân vật trong câu chuyện ấy. Không còn những câu hỏi đánh giá một chiều như: Nhân vật này đúng hay sai, tốt hay xấu? Chúng ta nên học theo nhân vật nào, chúng ta phải làm gì? Trong những câu chuyện được sử dụng trong giờ kể chuyện tương tác, trẻ sẽ được đi sâu vào thế giới cảm xúc của riêng mình, và của bạn bè, những câu hỏi và đáp án liên quan đến một phần cuộc sống thật của trẻ. Những câu hỏi trẻ sẽ làm quen dần đó là: How (Như thế nào), và Why (Tại sao). Cô giáo không phải người phán xét theo dạng một quan toà mà giáo viên sẽ theo dõi cách trẻ phản ứng, giải quyết vấn đề, cô sẽ cho trẻ thấy những bạn khác sẽ giải quyết vấn đề thế nào, từ đó, cô có thể đưa ra những định hướng và gợi dẫn riêng cho từng trẻ. 2.3. Vai trò của giáo viên trong kĩ thuật kể chuyện tương tác Có thể thấy, đây là một kĩ thuật phát huy tối đa vai trò trung tâm của trẻ. Tất cả các hoạt động giáo dục đều xoay quanh đối tượng nhận thức là trẻ. Theo chúng tôi, để kĩ thuật này thực sự thành công, người giáo viên cần hiểu rõ những điều sau: - Hiểu rõ về tâm lí và tính cách của lứa tuổi mầm non cũng như của từng cá nhân trẻ. Để thấy mỗi độ tuổi sẽ là một đặc điểm riêng, và để hiểu mỗi cá thể là riêng biệt. Sự đánh giá mỗi trẻ phải dựa trên sự phát triển của cá nhân trẻ ấy trong cả một quá trình, chứ không phải sự xếp loại hơn kém hay cào bằng. Mỗi trẻ ngoài những chuẩn chung của lứa tuổi, lại là một thế giới riêng cần sự tôn trọng của người lớn. Tôn trọng và dạy trẻ bằng trải nghiệm của chính trẻ, theo chúng tôi chính là điều quan trọng nhất về triết lí giáo dục mà giáo viên cần thấu triệt. 178 Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ... - Chọn lựa tác phẩm một cách phù hợp: Những câu chuyện có thể kích thích phát triển được sự tương tác giữa giáo viên và trẻ thường phải có nội dung đa dạng, mang màu sắc tích hợp, thường là truyện tranh để trẻ có thể dễ dàng tiếp cận. Truyện “có tính linh động cao, cho phép sự sáng tạo của giáo viên và trẻ trong quá trình đọc kể” [7;33]. Nguồn truyện này khá phổ biến và phong phú ở nước ngoài, nhưng ở Việt Nam, về cơ bản, vẫn còn ít và chưa đa dạng. Thời gian gần đây, các nhà xuất bản lớn như NXB Trẻ, NXB Kim Đồng, Công ty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam đã giới thiệu rất nhiều các tác phẩm truyện tranh khoa giáo nổi tiếng dành cho trẻ mầm non của nước ngoài, ví dụ như “Chúc ngủ ngon, khỉ đột”, “Tôi sẽ đỡ nếu bạn rơi”, bộ truyện về “Chú chim Bồ Câu” của tác giả Mo Willems, “Nơi quỷ sứ giặc non” của Maurice Sendak. . . .Đây là những gợi dẫn rất tốt cho việc mở rộng hứng thú đọc sách, kể chuyện ở trẻ. - Xây dựng không gian lớp học thành một sân khấu, với một không gian mở, có sự kết nối giữa không gian ngoài trời và không gian trong lớp, không gian góc và các khoảng không gian khác trong lớp. - Lên ý tưởng bài dạy, lắng nghe sự phản hồi của trẻ, “đóng vai trò đạo diễn, thu hút sự chú ý của trẻ, kết nối trẻ lại với nhau” [12;40]. Đây là điều khó nhất, nhưng là điều cần thiết nhất mà giáo viên cần làm. Chính những hoạt động và sự đa dạng về hoạt động, tính tích hợp giữa các hoạt động sẽ giúp một giờ kể chuyện thực sự hào hứng, là sự tương tác giữa trẻ và cô. - Quan sát và đánh giá trẻ, từ đó có những điều chỉnh về kĩ thuật cho phù hợp, để giúp đỡ và định hướng cho trẻ phát triển. 2.4. Thử vận dụng lí thuyết “Kể chuyện tương tác” để thiết kế mô đun “Sáng tạo cùng kể chuyện” dành cho trẻ mẫu giáo từ 4-5 tuổi Những biện pháp này đã được chúng tôi nghiên cứu và ứng dụng vào trong khoá học dành cho trẻ mầm non 4-5 tuổi với tên gọi: “Sáng tạo cùng kể chuyện”. Mỗi buổi học, trẻ được các giáo viên hướng dẫn thực hành 3 kĩ năng quan trọng sau: kĩ năng làm việc tập thể, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình. Cụ thể, một buổi học sẽ diễn ra các hoạt động sau: 1. Khởi động: nhằm tạo hứng thú, kích thích tư duy. 2. Nghe kể chuyện: trẻ nghe và tương tác cùng cô trong hoạt động nghe kể chuyện. 3. Hoạt động sáng tạo và khám phá: trẻ sẽ cùng cô tiến hành các hoạt động sáng tạo xoay quanh chủ đề câu chuyện theo hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân. 4. Kể chuyện/Sáng tạo chuyện: Trẻ dùng các sản phẩm do mình tạo ra để kể lại chuyện, sáng tạo câu chuyện của chính mình. 5. Hoạt động vận động kết thúc. Bảng 1. Cấu trúc của chương trình Kế hoạch Thời gian Nội dung Mục tiêu Mình cùng cô kể Buổi 1 Làm quen Trẻ hứng thú với chương trình, hoà nhập cùng các bạn, có ý thức kỉ luật tự giác Buổi 2 Kể chuyện cùng số đếm Trẻ nghe cô kể chuyện và làm quen với thế giới diệu kì của toán học Buổi 3 Kể chuyện cùng playdough Trẻ nghe cô kể chuyện và tái hiện lại câu chuyện cùng với đất nặn playdough 179 Phạm Minh Hoa Buổi 4 Kể chuyện cùng Vangogh Trẻ nghe cô kể chuyện, được cô giới thiệu một bức tranh của hoạ sĩ Vangogh, và trẻ sẽ vẽ lại bức tranh ấy theo phong cách của chính mình. Buổi 5 Kể chuyện cùng đóng kịch Trẻ nghe kể chuyện và dựng kịch theo câu chuyện Buổi 6 Kể chuyện cùng storymap, story cubes Trẻ học cách mô hình hoá câu chuyện theo sơ đồ cốt truyện (story map) và các xúc xắc (story cubes). Buổi 7 Kể chuyện cùng story walk Trẻ học cách mô hình hoá câu chuyện và dựng lại câu chuyện theo con đường câu chuyện (story walk) Mình dựng truyện Buổi 8 Gia đình của tớ Trẻ dựng và kể lại câu chuyện của chính mình xoay quanh chủ đề đưa ra, kết hợp với các hoạt động và phương tiện phụ trợ đã được giới thiệu từ các buổi trước. Buổi 9 Thiên nhiên trong mắt tớ Buổi 10 Trường học của tớ Mình cùng lên sân khấu Buổi 11 Thuyết trình cùa trẻ Trẻ sẽ trình bày về các vấn đề mà trẻ thích thú và quan tâm. Phụ huynh sẽ được mời đến trong buổi thuyết trình này. Tổng kết Buổi 12 Dã ngoại, thực tế Tổ chức một buổi dã ngoại. Trẻ và phụ huynh sẽ được cùng tham gia các hoạt động kể chuyện và sáng tạo cùng câu chuyện. - Có phần biểu diễn tập thể (múa tập thể, đóng kịch tập thể) - Phần trình bày thuyết trình của từng bạn. Phụ huynh, giáo viên có thể là khán giả hoặc một nhân vật trong chính vấn đề mà các con muốn thể hiện. Một lưu ý quan trọng đó là thứ tự lựa chọn và sắp xếp các truyện. Phần lớn các câu chuyện được chúng tôi chọn lựa từ những tác phẩm truyện tranh kinh điển dành cho trẻ mẫu giáo của nước ngoài và mang tính tích hợp cao. - Buổi 1-2-3: Các truyện đơn giản về nội dung, đa dạng về nhân vật, chủ yếu dạy trẻ về màu sắc,số đếm, vốn từ, kiến thức về thế giới tự nhiên. - Buổi 4-5-6-7: Các truyện ít nhân vật đi, có tuyến nhân vật với tính cách rõ ràng, có cốt truyện rõ ràng với mở đầu - cao trào - kết thúc, có những bài học giáo dục đạo đức; dạy trẻ về kết cấu của một câu chuyện, tư duy logic, khám phá và bộc lộ thế giới cảm xúc của bản thân, phát huy trí tưởng tượng sáng tạo. - Buổi 8-9-10: Không còn câu chuyện của cô nữa, mà trẻ sẽ tự dựng và kể những câu chuyện của chính mình xoay quanh những chủ đề được đưa ra. - Trong buổi 10, trẻ sẽ chuẩn bị cho đề tài mà mình sẽ trình bày ở buổi 11. 180 Ứng dụng kĩ thuật kể chuyện tương tác trong hoạt động phát triển ngôn ngữ... + Cô hướng dẫn trẻ chọn lựa ý tưởng: xoay quanh một quyển sách/truyện trẻ được giới thiệu, được đọc, xoay quanh một vấn đề mà trẻ quan tâm: Vì sao tớ lại phải đi học, Vì sao cần vào lớp 1, Vì sao lại cần tiền?... + Chuẩn bị ý tưởng + Tập thuyết trình. Chương trình này của chúng tôi đã nhận được những phản hồi rất tích cực từ phía phụ huynh và các bé. Số trẻ đến với lớp của chúng tôi hiện tại là 12 bạn trong độ tuổi 4-5. Khi chúng tôi lấy thông tin đánh giá buổi học từ phía các phụ huynh cho con đến học buổi demo, thì 90% số phụ huynh được hỏi ý kiến cảm thấy hứng thú với chương trình khóa học, và mong muốn cho con theo học tại lớp của chúng tôi. 3. Kết luận Kể chuyện tương tác thật sự có ý nghĩa với trẻ mầm non, vì nó đưa trẻ trở về với cuộc sống thực của các em, giúp trẻ tập trung phát triển ý tưởng, câu chuyện, và trải nghiệm. Theo Cheryl Wright (2012): “Những trò chơi đóng kịch cùng câu chuyện này cũng mang đến cơ hội cho trẻ để trở thành người đứng đầu cũng như có thể chia sẻ cùng các bạn hứng thú kể chuyện, đóng vai và quan sát, đánh giá” [4;200]. Lấy câu chuyện là chủ đề triển khai các hoạt động sáng tạo và khám phá, dùng câu chuyện để tương tác với trẻ, chính là cách mà chúng tôi làm nhằm khơi gợi ở trẻ lòng yêu thích đọc sách, tìm kiếm và phát huy những khả năng sáng tạo tiềm tàng ở trẻ. Và điều quan trọng nhất, trẻ được lắng nghe và học cách bộc lộ bản thân qua những câu chuyện của chính mình. Dựa trên những thực nghiệm với mô đun “Sáng tạo cùng kể chuyện”, chúng tôi tin rằng kĩ thuật kể chuyện tương tác cũng như mô đun này hoàn toàn có thể ứng dụng và nhân rộng trong thực tế ở các nhà trường mầm non, có thể dưới hình thức các câu lạc bộ ngoại khóa hoặc được áp dụng ngay trong các hoạt động học hàng ngày của trẻ. Và đây cũng là cách để những nghiên cứu của chúng tôi không chỉ nằm trên trang giấy mà được ứng dụng vào cuộc sống và mang lại lợi ích cho cộng đồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bill Martin Jr, Eric Carle, 1996. Brown Bear, Brown Bear, what do you see?. Henry Holt and Company, New York. [2] Cheryl Wright, Marissa L. Diener, Jacqueline Lindsay Kemps, 2012. Storytelling Dramas as a Community Builiding Activity in an Early Childhood Classroom. Early Childhood Education Journal, Vol 29 August, pp. 2. [3] Cooper, P.M, 2005. Literacy learning and pedagogical purposes in Paley’s storytelling curriculum. The Journal of Early Childhood Literacy, 5(3), 229-251. [4] Dyson, A. H, 2001. Donkey Kong in Little Bear country: A first grader’s composing development in the media spotlight. The Elementary School Journal, 101(4), 417–433. [5] Dorothy Faulkner, 2015. Storytelling cultures in early years classroom. The Open University, USA. [6] Eric Carle, 1987. The very hungry caterpillar. Philomel Books, New York. [7] Phạm Minh Hoa, 2015. Về thể loại truyện tranh khoa giáo dành cho trẻ mầm non có xuất xứ từ phương Tây. Văn học thiếu nhi trong nhà trường, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. [8] Lesley Farmer, 2004. Using technology for storytelling: Tools for children. New Review of Children’s Literature and Librarianship, USA. 181 Phạm Minh Hoa [9] Makebelivearts, 2012. The Helicopter Technique of Story Telling and Story Acting, UK. [10] NAEYC, 2001. A Conversation with Vivian Gussin Paley. Florida, USA. [11] National Storytelling Network, 2012. What is Storytelling. USA. [12] Paley, V.G, 1990. The boy who would be a helicopter: The use of storytelling in the classroom. The Havard University Press, USA. [13] Piaget, J. & Inhelder, B., 1969. The psychology of the child (H.Weaver, Trans). New York, NY: Best Books, Inc. (Original work published 1966). [14] Tallant, C., 1992. Telling with, not telling to: Interactive storytelling and at-risk children. ERIC Document Reproduction Service No.ED355574 Retrieved December 1, 2008, from ERIC database. [15] Đinh Hồng Thái, 2003. Giáo trình phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Nxb Giáo dục, Hà Nội. ABSTRACT Making use of interactive storytelling in literacy activities for preschool children Interactive storytelling is used by children as a way to predict what will happen in stories, and to act out and communicate with teachers and peers to create new stories. This plays an important role in developing early literacy, logical thought, imagination and cooperation in children. Keywords: Interactive storytelling, Early literacy development, Early childhood education 182
File đính kèm:
- ung_dung_ki_thuat_ke_chuyen_tuong_tac_trong_hoat_dong_phat_t.pdf