Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm "Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh"

Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803) là một trong những nhà tư tưởng tiêu biểu của Việt

Nam thế kỷ XVIII. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là một trong những tác phẩm

quan trọng mà ông để lại cho hậu thế. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh thể hiện

những quan điểm triết học phong phú, đặc sắc và những giá trị nhân sinh hướng

đến chân, thiện, mỹ. Tác phẩm cũng chính là một phương án kết hợp tam giáo

độc đáo theo lối dĩ Thích nhập Nho trước sự khủng hoảng đường lối tư tưởng

thống trị lúc bấy giờ.

Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trang 1

Trang 1

Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trang 2

Trang 2

Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trang 3

Trang 3

Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trang 4

Trang 4

Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trang 5

Trang 5

Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trang 6

Trang 6

Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trang 7

Trang 7

Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 4280
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm "Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm "Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh"

Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm "Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh"
c 
phe phái trong nội bộ chính quyền 
Quang Toản, dẫn đến sự phân hóa 
trong xã hội ngày càng gay gắt, các 
lực lượng nổi lên tranh giành quyền 
lực. Những điều này đã làm cho chính 
quyền Tây Sơn suy yếu và nhanh 
chóng đi đến suy vong. 
2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT 
HỌC TRONG TÁC PHẨM TRÚC LÂM 
TÔNG CHỈ NGUYÊN THANH 
Hiện thực lịch sử xã hội đương thời 
đã làm cho những tín điều Nho giáo 
bị lung lay đến tận gốc nên tư tưởng 
kết hợp Nho giáo, Phật giáo và Đạo 
giáo vốn có từ trước trở thành một 
lựa chọn hữu ích trong hoàn cảnh này. 
Tư tưởng căn bản của tác phẩm Trúc 
Lâm tông chỉ nguyên thanh là Nho 
giáo, nhưng những quan điểm Thiền 
học và Đạo giáo cũng được kết hợp 
hài hòa trong đó. Với nội dung đặc 
sắc, phong phú của tác phẩm Trúc 
Lâm tông chỉ nguyên thanh, Ngô Thì 
Nhậm đã khẳng định mình không chỉ 
là một nhà tư tưởng lớn mà còn là 
một vị thiền sư của Thiền phái Trúc 
Lâm - người đương thời tôn xưng 
ông là Tổ thứ tư của Thiền Trúc Lâm. 
Tư tưởng triết học trong tác phẩm 
này được thể hiện qua những nội 
dung về bản nguyên của thế giới và 
nhân sinh quan với những giá trị cốt 
lõi sâu sắc. 
Về bản nguyên của thế giới, đây là 
một trong những nội dung quan trọng 
và đặc sắc của tác phẩm này, là cơ 
sở lý luận để Ngô Thì Nhậm lý giải và 
đưa ra con đường giúp con người 
thoát khỏi bể khổ luân hồi nghiệp báo, 
giúp xã hội “từ thời loạn trở về thời trị”. 
Cho nên ông đã sử dụng những thanh 
đầu tiên trong 24 thanh để giải quyết 
vấn đề bản thể. 
Trong phần Thanh không, Ngô Thì 
Nhậm cho rằng bản nguyên của thế 
giới là không – không có gì, u huyền, 
lặng lẽ nhưng cũng rất lưu động, biến 
thiên, “hỗn độn”; chính là cái tuyệt đối 
tối cao, cái duy nhất, yếu tố đầu tiên 
cấu tạo lên vạn vật, và ông còn gọi đó 
là lý. Theo Ngô Thì Nhậm giải thích: lý 
là điểm khởi nguồn, vừa thống nhất, 
vừa đa dạng, ông viết: “Lý là cái thớ, 
cái đốt cây”, là cái “cao cả”, “tối cao” 
và rất huyền bí, rất khó nhận biết, và 
chúng ta không thể hiểu hết, “không 
noi theo hết được” (Ủy ban Khoa học 
xã hội Việt Nam, 1978: 54). Nhưng lý 
chính là cái gốc, cái mà từ đó sự vật, 
hiện tượng xuất hiện, cũng từ đó sự 
vật, hiện tượng “vạn thủy giai đông” 
quy về một mối. Sự vận động của lý là 
theo quy luật tự nhiên, tự nó, như 
“nước chảy xuống, lửa bốc lên” không 
theo ý muốn, ý chí của vạn vật. 
Ngoài ra, Ngô Thì Nhậm cho rằng lý 
có hai mặt: mặt thuận và mặt nghịch, 
nếu tuân theo tự nhiên, thuận quy luật 
tự nhiên là lý, còn trái với quy luật tự 
nhiên là nghịch lý. Do vạn vật đều có 
 CAO XUÂN LONG – TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NGÔ THÌ NHẬM 
4 
chung nguồn gốc là lý cho nên vạn vật 
cũng bao hàm đặc tính của lý bên 
trong mình, đó chính là đặc tính hai 
mặt của sự vật, hiện tượng trong thế 
giới, như: trời và đất, âm và dương, 
mặt trái và mặt phải, mặt thể và mặt 
dục, mặt tán và mặt tụ, mặt dị và mặt 
đồng, mặt cương và mặt nhu. Chính 
sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các 
mặt đối lập, giữa một bản thể duy nhất 
của vũ trụ với sự đa dạng của nhiều 
sự vật hiện tượng làm cho thế giới 
không ngừng biến hóa, phát triển một 
cách tự nhiên. Như vậy, theo ông thế 
giới này là một thể thống nhất hoàn 
chỉnh, tất cả đều bắt nguồn từ một mối 
quan hệ duy nhất đó chính là không, 
là lý. Từ vấn đề bản thể luận Ngô Thì 
Nhậm đã tiến tới lý giải nguồn gốc nỗi 
khổ của con người, từ đó chỉ ra con 
đường và phương pháp giúp con 
người thoát khỏi bể khổ. 
Về nhân sinh quan, đây cũng là nội 
dung quan trọng, cốt lõi trong tác 
phẩm này. Những lý giải về bản thể 
luận là cơ sở để ông lý giải nguyên 
nhân nỗi khổ và đưa ra phương pháp 
thoát khổ cho con người trên nền tảng 
của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. 
Trong phần Thoát thanh, Ngô Thì 
Nhậm giải thích: do con người không 
nhận thức được cái trong sáng, sáng 
rõ của cái phi phi tưởng, cái phi phi 
kiến cho nên con người bị đẩy vào 
ngục, đẩy vào bể khổ luân hồi. Khi giải 
thích về luân hồi, ông viết: “Một năm 
có cái luân hồi của một năm, một 
tháng có cái luân hồi của một tháng, 
một ngày có luân hồi của một ngày. Vì 
luân (cái bánh xe), cho nên hồi (xoay 
vòng) người hữu đạo thì có luân hồi, 
người vô đạo thì không có luân hồi” 
(Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, 
1978: 162). Còn khi giải thích về ngục, 
ông cho rằng trong thế giới này có hai 
cái ngục - ở hai nơi dương thế, âm 
thế, để xử lý, trừng phạt con người có 
những hành động sai trái do tâm 
không trong sáng, và trí vô minh dẫn 
dắt gây ra tội lỗi. Đó chính là nhân 
ngục – ngục dành cho những người 
phạm tội khi sống, ngục này do con 
người tạo ra, cho nên với nhân ngục 
thì con người “có thể thoát ra dễ 
dàng”; còn địa ngục - ngục dành cho 
những người phạm tội sau khi chết, 
ngục này không do con người lập ra 
nên khi bị nhốt vào loại ngục này sẽ 
không thể thoát được. Ông viết: “Địa 
ngục rất nguy: Phật có nói đến nỗi khổ 
ở ngục vô gián – nơi địa ngục cực kỳ 
tàn ác, tội nhân liên tục phải chịu 
những hình phạt đau đớn, không bao 
giờ thoát được” (Ủy ban Khoa học xã 
hội Việt Nam, 1978: 91), Ngô Thì 
Nhậm đặc biệt chú ý đến địa ngục, và 
phương pháp giúp con người có thể 
thoát khỏi địa ngục. Để tìm ra phương 
pháp phá ngục, ông đã đi tìm những 
nguyên nhân khiến con người bị đẩy 
vào ngục. Ông cho rằng, sở dĩ chúng 
sinh bị đẩy vào ngục “ấy là vì chúng 
sinh từ bi. Hữu Ngu Thị không từ bi, 
Phật Thích Ca cũng không từ bi cho 
nên phá được địa ngục” (Ủy ban Khoa 
học xã hội Việt Nam, 1978: 92). Ông 
giải thích, chúng sinh “mắc vào lưới” 
từ bi chính là phạm cái nghiệp 
chướng tình ái, nên không giữ được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 
5 
cái tinh, cái trong sáng của trí tuệ, và 
của tâm cho nên bị quay cuồng trong 
vòng luẩn quẩn của tiền tài, danh lợi, 
do đó bị đọa xuống địa ngục. Đúng 
như nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng 
Hậu lý giải: “Nhà Phật bảo giết cha 
giết mẹ không phải là giết thực mà chỉ 
là cách dùng hình tượng để tỏ ý phủ 
nhận (giết) hết thảy mọi hiện tượng 
bên ngoài ảo ảnh nhưng lại cho là 
thật” (Nguyễn Hùng Hậu, 2002: 207). 
Theo Ngô Thì Nhậm địa ngục chỉ có 
thể “phá” mới thoát ra được, cũng chỉ 
có những bậc “đại lực lượng mới phá 
được địa ngục” sử dụng “cái phép tinh 
nhất” nghĩa là phải tinh tường chuyên 
nhất mới nắm được đạo trung và “lấy 
phép tinh tiến” có nghĩa là không tạp 
và không nhác mới có thể phá ngục. 
Ông viết: “Hữu Ngu Thị lấy cái phép 
Tinh Nhất mà phá nó, Thích Ca Mâu 
Ni lấy cái phép Tinh Tiến mà phá nó. 
Sau này, Nhan Hồi nói Khắc kỷ - Khắc 
kỷ phục lễ vi nhân, Đại Tuệ nói Sát 
hại – phủ định dứt khoát với hiện 
tượng bên ngoài, cả hai đều dụng 
công ở trên chữ Tinh (không tạp) cho 
nên cái tinh lực để đánh phá địa ngục 
là thanh bảo kiếm kim cương (không 
pha tạp, trong trắng, cứng cỏi)” (Ủy 
ban Khoa học xã hội Việt Nam, 1978: 
91-92). 
Vậy làm sao chúng sinh có “thanh bảo 
kiếm kim cương” để tránh vòng sinh 
tử, luân hồi và thoát khỏi địa ngục âm 
thế. Theo Ngô Thì Nhậm, để có thanh 
bảo kiếm đó, con người cần phải có 
“tuệ tâm” và “tuệ nhãn”, phải thật sự 
trong sáng, không theo ý riêng của 
mình và cần chấp chính. Ngô Thì 
Nhậm đã viết: “Không mộ Phật là giải 
thoát kiến trọc, được vào Vô dư niết 
bàn Xương Lê cũng có theo ý riêng 
của mình và tất (câu chấp), chẳng 
bằng không có ý, không có tất mới 
thật là tốt” (Ủy ban Khoa học xã hội 
Việt Nam, 1978: 142). Chính vì vậy, 
ông đã chỉ ra cho chúng sinh phương 
pháp để có tuệ tâm và tuệ nhãn. 
Khi đánh giá về vai trò của tâm đối với 
việc phá ngục, trong Xu thanh, Ngô 
Thì Nhậm cho rằng tâm có rất nhiều 
nghĩa nhưng tựu chung đó là thiện, 
thiền, nó là yếu tố then chốt của muôn 
sự. Cho nên, để có tuệ tâm trong sáng, 
ông viết: “Nghiêu, Thuấn lấy tâm đức 
mà thiện cho Bách Vương, Quan Thế 
Âm lấy tâm lượng mà thiện Chư Phật” 
(Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, 
1978: 122). Nếu tâm trong sáng, “bất 
động” thì nơi đâu cũng là “nhà”, “pháp 
gia” - nhà tinh thần. Chính vì vậy, khi 
tâm ta trong sáng “bất động” thì không 
cần xuất gia, vì nơi đâu cũng là nhà 
rồi. Ông cho rằng: “Tu pháp thì không 
bằng tu đạo, tu thân thì không bằng tu 
tâm” (Ủy ban Khoa học xã hội Việt 
Nam, 1978: 119). Đã gọi là “pháp gia” 
thì không xuất gia cho nên thánh 
nhân “xem thiên hạ một nhà”, còn 
chúng sinh thì nặng nghiệp, vì lòng 
tham và ghét, tự mình xuất gia” (Ủy 
ban Khoa học xã hội Việt Nam, 1978: 
99). Khi con người xuất gia, con 
người không còn quan hệ với con 
người nữa, mà mối quan hệ lúc này 
chuyển thành mối quan hệ với súc vật 
nên con người bị đẩy vào địa ngục. 
 CAO XUÂN LONG – TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NGÔ THÌ NHẬM 
6 
Ông còn phân biệt tính trời (hay tính 
Phật) và tính người. Theo ông tính trời 
lặng lẽ và dập tắt (Tịch diệt), còn tính 
người ồn ào và dấy lên (Huyền khởi). 
Ông viết: “Diệt được tính người thì tức 
thời muôn cảm (tác động) đều lặng chỉ 
còn một cái chân lâng lâng. Chuông 
trống ở đằng trước mà tai không bị 
loạn, gấm vóc ở đằng trước mà mắt 
không bị choáng, thiên binh vạn mã ở 
đằng trước mà tâm không dao động. 
Được như vậy mới gọi là Tịch (lặng)” 
(Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, 
1978: 109), đó là về với tính Phật, là 
“phá địa ngục”, quan điểm này của 
Ngô Thì Nhậm dường như có những 
điểm tương đồng với quan điểm của 
Lão Tử về “vô vi nhi trị”. “Vô vi” không 
có nghĩa là không làm gì cả, mà là 
hành động không trái với quy luật tự 
nhiên, không giả tạo, gò ép, không thái 
quá, bất cập. Nếu không thuận theo 
đạo tự nhiên, đem ý chí, dục vọng của 
con người cưỡng ép vạn vật tức là lấy 
“cái nhân vi, giả tạo” thay thế cho cái 
tự nhiên, là trái với “đạo vô vi tự nhiên”. 
Để có tuệ tâm, Ngô Thì Nhậm dựa 
trên quan điểm của Nho giáo và Phật 
giáo cho rằng con người cần phải 
“quy kết về tâm tính thì là một mà thôi. 
Vì vậy nhà Nho nói chính tâm, nói 
thành tín, nhà Phật nói chính tâm, nói 
kiến tính đều là có nghĩa “đạo người 
quân tử rộng khắp mà kín đáo đạo 
của trời chỉ có người mới biết được” 
(Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, 
1978: 103). 
Để có tuệ nhãn, Ngô Thì Nhậm tiếp 
thu quan điểm cho rằng sắc chẳng 
phải không, không chẳng phải sắc (thị 
sắc phi sắc, thị không phi không) của 
Phật giáo; khẳng định rằng con người 
chỉ có thể nhận thức đúng đắn, rõ 
ràng, chân thực, như về bản thể, về 
thế giới sự vật hiện tượng, về xã hội 
và về chính mình khi nhận thức đó 
vắng bóng tư dục, vọng tưởng, vượt 
qua và thoát khỏi thế giới khái niệm 
(tưởng) đến với thế giới thực tại 
(không phải tưởng, cũng không phải 
phi tưởng mà phải là phi phi tưởng) 
(Nguyễn Lang, 2000: 663-666). Điều 
này được Ngô Thì Nhậm thể hiện rõ 
trong phần Ngộ thanh: Ông viết: “Lý 
không noi theo hết được, dục không 
cắt đứt hết được hay sao? 
Thầy nói: Không cắt đứt thì đứt, cắt 
đứt thì không đứt cuồn cuộn nước 
chảy, chảy thì khô cạn, lốm đốm lửa 
dập thì bốc. 
Đồ đệ lại bạch thầy rằng: Có nước gì 
không phải là nước chăng? 
Thầy đáp rằng: Nước xem là nước, thì 
đó không phải là nước thật. 
Lại bạch thầy: Có lửa gì không phải là 
lửa chăng? 
Thầy đáp: Lửa xem là lửa thì đó chính 
là lửa giả. Nước thật thì nóng, lửa thật 
thì lạnh được. Cho nên kẻ nào hữu 
dục là vô dục, vô dục là hữu dục. 
Đồ đệ lại bạch: Trong thiên hạ có vật 
gì là tốt? 
Thầy đáp rằng: Mọi vật đều tốt cả, vật 
gì ta thích thì tốt, ta không thích thì 
không tốt. Cho nên cái tốt mà không 
tốt, cái không tốt mà tốt” (Ủy ban Khoa 
học xã hội Việt Nam, 1978: 64-65). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 
7 
Ngô Thì Nhậm giải thích: “Có sinh là 
bất sinh, có diệt là bất diệt. Đầu trâu 
mình rắn khó mà trông thấy sẻ ngủ, 
gà dậy, tự nhiên biết. Tây Ngưu Hóa 
có đại thiên thế giới sinh vô số vạn ức 
kiếp, thân có vô số vạn ức kiếp năm, 
cũng có vô số vạn ức thân, tai mắt 
mồm mũi đầy đủ. Người thử xem như 
thế là hữu sinh hay vô sinh 
Ai thổi mà khô 
Ai hà mà xanh 
Rút cục gốc tùng 
Tự diệt tự sinh” (Ủy ban Khoa học xã 
hội Việt Nam, 1978: 72). 
Ngô Thì Nhậm đã đi sâu vào vấn đề 
nhận thức cái tinh tế, cái “phi phi 
tưởng”. Theo ông nhận thức về đối 
tượng có ba cấp độ đó là: “tưởng”, 
“phi tưởng” và “phi phi tưởng”. Trong 
đó “phi phi tưởng” là cấp độ cao nhất, 
cấp độ nhận thức bản thể, trong sáng, 
tinh tế của vũ trụ, đó là nhận thức thế 
giới hiện thực vượt qua thế giới hiện 
thực. Ngô Thì Nhậm viết: 
“Đồ đệ hỏi. Thầy nghẹn thì có Tưởng 
hay không? 
Thầy đáp: Ta tưởng cái phi tưởng, 
chưa đến được cái phi phi tưởng cho 
nên nghẹn. 
Đồ đệ hỏi. Thầy tưởng cái Tưởng gì? 
Thầy đáp: Ta tưởng việc thiên phủ, 
địa phủ, thủy phủ mà tưởng không ra 
việc gì... Như thế là ta tưởng cái phi 
tưởng chứ không tưởng cái phi phi 
tưởng, muốn thấy cái phi kiến chứ 
không muốn thấy cái phi phi kiến” (Ủy 
ban Khoa học xã hội Việt Nam, 1978: 
77). 
“Nhiều người hỏi cái chân thực của 
mình 
Nguyên tinh là thần của ta 
Nguyên khí là thân của ta 
Thần giáng nguyên đó 
Ta có chân thân” (Ủy ban Khoa học xã 
hội Việt Nam, 1978: 82). 
Khi xem xét thế giới sự vật hiện tượng 
ông đã chỉ ra điểm giống và khác 
nhau của nó: “người là người, ma là 
ma, súc sinh là súc sinh, tai ù thì 
không có vang. Bóng vang là hình khí 
ở bên ngoài, tai mắt là hình khí bên 
trong. Người thì không tàng hình 
được, ma thì không hiện hình được, 
cầm thú thì không nói tiếng người 
được” (Ủy ban Khoa học xã hội Việt 
Nam, 1978: 85). Ông cho rằng sự vật 
hiện tượng chỉ khác nhau về hình 
thức biểu hiện mà thôi, còn nguồn gốc 
và bản chất thì giống nhau đều xuất 
phát từ “một gốc”. Do đó, ông viết tiếp: 
“Người với những điều đó là hình khí 
bên ngoài mà thôi. Kẻ nào giác ngộ 
Phật thì không xả thân, kẻ mà không 
giác ngộ Phật mới xả thân” (Ủy ban 
Khoa học xã hội Việt Nam, 1978: 86). 
Như vậy, khi chúng sinh có tuệ tâm 
trong sáng và tuệ nhãn thông tuệ, thì 
lúc đó chúng sinh đã có trong tay 
“thanh bảo kiếm kim cương” để phá 
ngục và thoát ra khỏi bể khổ luân hồi. 
3. KẾT LUẬN 
Tư tưởng Ngô Thì Nhậm trong tác 
phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh 
mặc dù thể hiện sự bế tắc, chán 
chường của một nhà trí thức trước 
hiện thực xã hội, nhưng nhìn tổng thể, 
 CAO XUÂN LONG – TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NGÔ THÌ NHẬM 
8 
nội dung của tác phẩm đã thể hiện 
những quan điểm triết lý phong phú và 
những giá trị nhân sinh sâu sắc 
hướng con người đến chân, thiện, mỹ 
dựa trên sự kết hợp Nho, Phật, Đạo. 
Ông xứng đáng được các đệ tử Trúc 
Lâm tôn xưng là Vị tổ thứ tư của dòng 
Thiền Trúc Lâm.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Nguyễn Hùng Hậu (chủ biên). 2002. Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam - 
tập 1. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia. 
2. Nguyễn Lang. 2000. Việt Nam Phật giáo sử luận - tập 1, 2, 3. Hà Nội: Nxb. Văn học. 
3. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Ban Hán Nôm. 1978. Thơ văn Ngô Thì Nhậm - 
tập 1, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh). Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 
4. Viện Triết học. 1994. Nho giáo tại Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_triet_hoc_cua_ngo_thi_nham_qua_tac_pham_truc_lam_to.pdf