Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông

Là một trong những đại diện xuất sắc nhất của Thiền học

Việt Nam thời Trần, vua Trần Thái Tông với tác phẩm Khóa hư lục

đã thể hiện sâu sắc quan niệm nhập thế, gắn đạo với đời của ông

không chỉ về phương diện lý luận, mà cả về phương diện hành

động thực tiễn. Tư tưởng nhập thế của ông không chỉ được vận

dụng vào việc trị nước an dân, xây dựng và củng cố các mặt đời

sống kinh tế, văn hóa - xã hội ngày một hoàn thiện hơn so với thời

Lý trước đó, mà đặc biệt hơn nó còn được vận dụng vào cuộc

kháng chiến chống giặc Nguyên Mông lần thứ nhất, làm nên chiến

thắng hào hùng của dân tộc. Nét đặc sắc trong tư tưởng nhập thế

này đã đưa tên tuổi của Trần Thái Tông xứng đáng là ngọn đuốc

sáng của Thiền học Việt Nam vào thế kỉ XIII.

Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông trang 1

Trang 1

Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông trang 2

Trang 2

Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông trang 3

Trang 3

Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông trang 4

Trang 4

Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông trang 5

Trang 5

Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông trang 6

Trang 6

Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 4100
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông

Tư tưởng nhập thế trong triết học Phật giáo Trần Thái Tông
g Thái Tông thi tập, ba bài văn gồm, một đề tựa cuốn 
Kinh Kim Cương tam muội chú giải, một đề tựa cuốn Thiền tông chỉ nam 
ca và bài còn lại là đề tựa cuốn Bình đẳng lễ sám văn; ngoài ra còn có hai 
tác phẩm được giữ lại hầu như trọn vẹn là sách Khóa hư lục và Lục thì 
sám hối khoa nghi. Các trước tác còn lại đến ngày nay của Trần Thái 
Tông được ghép chung vào sách lấy tên là Khóa hư lục. 
Về thời đại, Trần Thái Tông sinh ra trong bối cảnh triều Lý rơi vào sự 
suy tàn không sao cứu vãn nổi, triều đình bạc nhược, trong nội bộ đất 
nước diễn ra sự tranh giành quyền lực giữa các dòng tộc. Họ Trần nhân 
dịp này đã chớp thời cơ, dùng mưu lược thông qua mối quan hệ hôn nhân 
giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng đã chuyển ngai vàng từ nhà Lý sang 
nhà Trần một cách hòa bình êm thấm. Và Trần Thái Tông đã trở thành vị 
vua có công khai mở cho sự trị vì của nhà Trần suốt khoảng thời gian sau 
đó (1225-1400). Khi nghiên cứu về tư tưởng triết học của Trần Thái 
Tông, chúng ta cần nhấn mạnh rằng một trong những điểm quan trọng 
quán xuyến toàn bộ lý luận của ông đó chính là quan niệm nhập thế sâu 
sắc. Quan niệm nhập thế này được thể hiện rõ nét trên cả hai phương 
diện: lý luận và thực tiễn. 
2. Quan niệm nhập thế về phương diện lý luận 
Nếu chúng ta xem tư tưởng nhập thế như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt 
chiều dài lịch sử Phật giáo dân tộc thì điều này ở triết học Trần Thái 
Tông càng được thể hiện rõ nét, mang tính chất điển hình tiêu biểu. 
Trước khi tìm hiểu quan niệm nhập thế của Trần Thái Tông, chúng ta cần 
làm rõ nội hàm của khái niệm “nhập thế” được dùng ở đây. Theo Đại từ 
điển Tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, thì khái 
niệm “nhập thế” có nghĩa là “vào gánh vác việc đời, không xa lánh cõi 
38 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 
đời”2. Như vậy, vận dụng ý nghĩa này vào Phật giáo dân tộc có nghĩa là 
Phật giáo Việt Nam không mang thái độ bi quan, yếm thế như Phật giáo 
Ấn Độ nguyên thủy mà ngược lại nó chứa đựng tinh thần dấn thân, sẵn 
sàng đảm nhận và gánh vác việc đời, không xa lánh cõi đời. Ở Trần Thái 
Tông, tinh thần nhập thế, gắn đạo với đời càng sâu sắc hơn. 
Truyền thống nhập thế tích cực của Phật giáo Việt Nam đã có từ thời 
Lý, gắn liền với tên tuổi của nhiều vị thiền sư danh tiếng thuộc thiền phái 
Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tiêu biểu như thiền sư Định Không (730-808), trưởng 
lão La Quý An (852-936), thiền sư Pháp Thuận (925-990), thiền sư Vạn 
Hạnh (?-1025), thiền sư Viên Học (1073-1136), v.v... Có thể nói, hầu hết 
các vị thiền sư này đều là những nhà trí thức lớn của dân tộc thời bấy giờ. 
Họ học rộng, uyên bác, tinh thông Tam giáo, giỏi cả chữ Phạn lẫn chữ 
Hán, tinh tường sấm vĩ dự báo vận nước... Trên tất cả, đó chính là tấm 
lòng yêu nước thương dân, hòa hợp với đức hiếu sinh, trọng từ bi hỷ xả 
của tinh thần Phật giáo. Họ có thể nhận lãnh bất kỳ trọng trách nào khi 
đất nước cần, dù là tiếp sứ, cố vấn chính trị cho vua, tăng thống, v.v.. 
Tiêu biểu như thiền sư Vạn Hạnh “trụ tích trấn vương kỳ”3, hay như thiền 
sư Viên Học “tùy phương khai hóa, cho đến sửa cầu, đắp đường, không 
việc nào là không xung phong trước”4. Đến lượt thiền phái Vô Ngôn 
Thông cũng đã có nhiều vị danh tăng thạc đức chú trọng tinh thần nhập 
thế, tiêu biểu như: Quốc sư Thông Biện (?-1134), thiền sư Trí Bảo (?- 
1190) “chống gậy xuống núi, hoặc sửa cầu đường, hoặc dựng chùa tháp, 
tùy duyên khuyến khích mọi người, không màng lợi dưỡng”5. 
Trần Thái Tông đã kế thừa tinh thần nhập thế của Phật giáo thời Lý 
trước đó, đồng thời phát triển nó lên một bước về mặt lý luận và thực 
tiễn. Nhìn lại cuộc đời của ông thưở thiếu thời có thể thấy, Trần Thái 
Tông có tuổi thơ côi cút, cha mẹ mất sớm khi vừa mới mười sáu tuổi. Với 
trọng trách gánh vác vận mệnh nước nhà trên vai, cộng thêm nỗi buồn 
phiền vì chuyện riêng khi bị người chú là Trần Thủ Độ bắt ép từ bỏ 
Chiêu Thánh - đang là hoàng hậu vợ của Thái Tông, giáng xuống làm 
công chúa và ép ông phải lập vợ của anh ruột tên Trần Liễu là Thuận 
Thiên công chúa đang có mang ba tháng lên làm hoàng hậu, định mạo 
nhận đứa con để nối dõi về sau. Do Chiêu Thánh sau hơn mười năm mà 
vẫn chưa có con với Thái Tông, trong khi Trần Thủ Độ nóng lòng muốn 
có người kế vị nhà Trần về sau nên đã áp dụng biện pháp cực đoan như 
thế. Việc làm này đã khiến cho Trần Thái Tông vô cùng đau khổ, dằn vặt 
vì bị mang tiếng là “lấy tranh vợ của anh ruột”, gây nên chuyện “thương 
Nguyêñ Ngọ c Phượ ng. Tư tưởng nhậ p thê.́.. 39 
luân bại lý”. Đó là nguyên nhân khiến cho Trần Thái Tông bức xúc, đang 
đêm bỏ trốn khỏi hoàng cung, lên núi Yên Tử mong cầu thành Phật để 
hóa giải hết mọi đau khổ trong cuộc đời. 
Trong bài Tựa Thiền Tông chỉ nam, Trần Thái Tông đã tự thuật lại 
việc bỏ ngôi vua đi lên núi tu như sau: Khi phát hiện ra vua bỏ trốn, Trần 
Thủ Độ cùng quan quân và các bậc quốc lão tìm đến tận núi để thuyết 
phục Thái Tông trở về triều. Trần Thủ Độ tuy là người không được học 
hành nhưng có tài thao lược và mang nặng đầu óc thực tiễn. Ông từng 
chân thành khuyên vị vua trẻ như sau: “Như thần nghĩ, bệ hạ tính kế tự tu 
đã vậy nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Nếu chỉ để lời nói suông lại 
cho đời sau, sao bằng đem thân mình làm gương trước cho thiên hạ”6. 
Trần Thủ Độ đã chỉ ra cho vua thấy rằng, nếu bậc làm vua mà bỏ xã tắc 
đi tu, cầu tìm sự giải thoát cho riêng bản thân mình chẳng khác gì lẩn 
tránh thế sự. Trọng trách trị quốc an dân không thể được thay thế bằng 
vài ba lời nói suông là đủ, mà vua phải trở thành tấm gương mẫu mực 
trong việc tế thế an dân, bằng những hành động ích nước lợi dân cụ thể 
và thiết thực. 
Lời của Trần Thủ Độ không phải là không tác động đến nhận thức của 
Trần Thái Tông. Tuy nhiên, để cho vị vua trẻ tâm phục khẩu phục hoàn 
toàn mà thay đổi quyết định thì lại phải nhờ đến sự khuyên bảo tận tình 
của Quốc sư Trúc Lâm giúp cho vua hiểu. Khi nghe Thái Tông ứa lệ bộc 
bạch rằng: “Trẫm đương trẻ thơ, mẹ cha vội mất, trơ vơ đứng trên dân 
chúng, không chỗ tựa nương; lại nghĩ sự nghiệp các đế vương thuở trước, 
thay đổi bất thường, cho nên tìm đến núi này chỉ muốn được thành Phật, 
chứ không cầu gì khác”7. Nghe lời giãi bày với ý định bỏ ngôi vua, lên 
núi đi tu mong cầu thành Phật của Thái Tông, Quốc sư Trúc Lâm từ tốn 
giải thích cho vị vua trẻ mộ đạo hiểu được ý chỉ của thiền học như sau: 
“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà 
hiểu, đó chính là chân Phật. Nay nếu bệ hạ giác ngộ điều đó thì lập tức 
thành Phật, không cần khổ công tìm kiếm bên ngoài”8. Đây chính là yếu 
chỉ của Phật giáo Thiền tông: Phật tại tâm, ngoài tâm không có Phật. 
Khi Thái sư Trần Thủ Độ tìm mọi cách ép vua phải về triều, vua do dự 
không biết phải làm thế nào thì Quốc sư Trúc Lâm ân cần, cầm tay vua 
mà khuyên rằng: “Phàm đã là bậc nhân quân, tất phải lấy ý muốn của 
thiên hạ làm ý muốn của mình; lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng 
của mình. Nay muôn dân đã muốn đón bệ hạ về thì bệ hạ không về sao 
được!”9. Lời nhắn nhủ vừa chân thành, vừa sâu sắc của Quốc sư Trúc 
40 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 
Lâm đã thâu tóm trong đó triết lý nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Quốc 
sư muốn chỉ bày cho vị vua trẻ hiểu rằng, đi tu Phật không nhất thiết cứ 
phải xuất gia cầu đạo, tìm sự giải thoát cho riêng bản thân mình, mà điều 
quan trọng hơn là ở chỗ giữ cho thân tâm trong sáng, dốc lòng tu luyện 
về mặt trí tuệ và giới luật. Một trong những cách thức để mau chóng đi 
đến giác ngộ đó là người tu thiền cố gắng khai mở tâm của mình đạt đến 
trạng thái minh tâm kiến tính, thấu suốt triết lý “vô ngã, vị tha”, vượt qua 
sự ích kỷ, hẹp hòi của cá nhân để hướng tới cái tâm từ bi, bao dung hết 
mọi chúng sinh, nhân quần trong xã hội. Đặc biệt hơn, với những người ở 
vào địa vị đảm nhận trọng trách cao cả như bậc làm vua, càng phải thực 
hiện sự khai mở tâm ở phạm vi rộng lớn hơn đi từ góc độ gia đình, dòng 
tộc cho đến toàn thể muôn dân và chúng sinh. 
Ở đây, chúng ta thấy có một sự tương đồng thú vị về những tư tưởng 
cao đẹp của các bậc thượng trí dù ở những thời đại khác nhau trong lịch 
sử. Nếu như Lão Tử trong tác phẩm Đạo Đức kinh từng nói: “Đấng thánh 
nhân không có lòng thường, lấy lòng của trăm họ làm lòng mình. Với kẻ 
lành, ta tốt đấy; với kẻ không lành, ta cũng tốt đấy, vì đức lành...”10 thì ở 
đây lời khuyên bảo của Quốc sư Trúc Lâm với Trần Thái Tông tỏ rõ ý 
nghĩa cụ thể hơn, thực tế hơn so với lời giáo hóa của Lão Tử. Nhà triết 
học Trung Hoa có ý tưởng cao cả về quan niệm thánh nhân, lấy lòng của 
trăm họ làm lòng mình, tốt với cả kẻ lành và kẻ không lành. Trên thực tế, 
quan niệm này quả thực rất khó thực hiện, lại dường như là sự nhún 
nhường cho những kẻ ác. Kế thừa những điểm hợp lý và phù hợp với tinh 
thần dân tộc, Quốc sư chỉ khuyên vua một điều duy nhất là: Phàm bậc 
làm vua, tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm 
lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình. Người nào đạt được như thế sẽ 
mau chóng đi đến giác ngộ và giải thoát. Họ đạt đến cảnh giới tu và ngộ 
đạo, thành Phật ngay chính trong cuộc đời, họ sống ung dung, tự tại, 
điềm nhiên “ứng cơ tiếp vật” có nghĩa là có thể nhận lãnh lấy bất kỳ 
trọng trách nào mà muôn dân và xã tắc giao phó. Tư tưởng này chứa 
đựng quan niệm “dân là gốc”, thấy được mối liên hệ gắn bó giữa việc tạo 
dựng một nền chính trị thân dân với sức mạnh và lực lượng của toàn dân. 
Tư tưởng nhập thế sâu sắc trong triết học Phật giáo của Trần Thái 
Tông còn được hiểu với hai nét nghĩa: nét nghĩa thứ nhất, đó là không xa 
lánh cõi đời mà dấn thân, hăng hái đi vào cuộc đời để dũng cảm gánh vác 
các trách nhiệm mà đời sống giao phó, sao cho đem lại lợi ích chính đáng 
cho dân cho nước; nét nghĩa thứ hai, là nhập thế sâu sắc, còn có nghĩa là 
Nguyêñ Ngọ c Phượ ng. Tư tưởng nhậ p thê.́.. 41 
thiền giả cố gắng đem ứng dụng những giá trị đạo đức nhân sinh cao đẹp 
của Phật giáo vào đời sống, làm cho nó hiển hiện tràn đầy và sinh động, 
tạo phúc cho chúng sinh. 
Trong số các trước tác còn lưu lại đến ngày nay của Trần Thái Tông 
có bài Tựa Kinh Kim cương tam muội, ông đã mạnh dạn đem sự hiểu biết 
của mình để giảng giải lại cho chúng sinh hiểu nội dung cơ bản của kinh 
này, ông viết: “Khơi giọt nước ở tận nguồn chính giác; đắp bụi sa nơi cửa 
ngõ chân như. Phát huy ý chỉ, mở rộng chân tông. Khiến cho vừa thoáng 
xem văn; đã hiểu rõ ràng nghĩa lý. Phá giậu phên bền vững của bọn tà, 
làm mẫu mực lễ nghi cho môn đệ”11. Qua lời tự sự của ông, chúng ta 
thấy, Trần Thái Tông đã thể hiện rõ quan niệm nhập thế sâu sắc. Giảng 
giải rốt ráo ý nghĩa thâm sâu của kinh điển Phật giáo thật không phải là 
việc dễ dàng gì, trái lại phải mất rất nhiều công sức nghiên cứu tìm tòi, 
lao tâm khổ tứ mới làm nên được trọn vẹn. Biết là khó, song ông vẫn dấn 
thân làm cho bằng được, tự nhận lấy trách nhiệm cao cả để khơi nguồn 
chính giác, mở rộng chân tông, trở thành mẫu mực cho môn đệ noi theo. 
Khi đã dũng cảm viết nên những câu khẳng khái như thế, không nói ra 
nhưng chúng ta đều có thể hiểu rằng, một người muốn lấy thân mình ra 
để nêu gương đạo đức cho người khác noi theo, ắt hẳn người đó phải vô 
cùng bản lĩnh, trí tuệ, có tư chất, đạo đức mẫu mực ít ai sánh kịp. 
Quan niệm nhập thế của Trần Thái Tông không chỉ thể hiện qua 
những lời tự sự, mà nó còn được phản ánh rõ nét qua những tác phẩm lý 
luận của ông. Tiêu biểu như trong bài Bàn rộng về sắc thân, Trần Thái 
Tông có nêu lên quan điểm của mình xoay quanh vấn đề tu và chứng ngộ 
như sau: “Như chưa thấu Phật tâm ý tổ; trước hãy nên trì giới tụng kinh. 
Đến lúc hay Phật là không, tổ là không; thì giới chẳng cần trì, kinh không 
cần tụng. Trong ảo sắc cũng là chân sắc; nơi phàm thân cũng thực pháp 
thân. Phá lục tặc làm lục thần thông; đưa bát khổ thành bát tự tại”12. 
3. Quan niệm nhập thế về phương diện thực tiễn 
Một trong những điểm nổi bật ở Trần Thái Tông là ông không chỉ 
dừng lại ở lời nói suông mà nói đi đôi với làm, chứa đựng quan niệm 
nhập thế sâu sắc mà không phải nhà thiền học nào cũng có thể đạt được. 
Trong buổi giao thời chuyển từ tình trạng khủng hoảng suy vi vào cuối 
thời Lý sang sự ổn định, phát triển vào đầu thời Trần, không thể bỏ qua 
công lao đóng góp to lớn của Trần Thái Tông với tư cách là vị vua khai 
mở đầu triều đại nhà Trần. Quan niệm nhập thế này đã chi phối tất cả suy 
42 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 
nghĩ và hành động của ông không nằm ngoài mục đích nhằm nhanh 
chóng đưa xã hội phong kiến trong bước chuyển giữa hai triều đại sớm đi 
vào ổn định để khôi phục, phát triển mọi mặt khác của đời sống xã hội từ 
hình luật, kinh tế đến quân sự, văn hóa giáo dục, tư tưởng v.v... 
Tư tưởng nhập thế về phương diện thực tiễn đã được Trần Thái Tông 
vận dụng thông qua nhiều hành động cụ thể, thiết thực mang ý nghĩa ích 
nước lợi dân, tạo điều kiện để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Tiêu 
biểu như về phương diện hình pháp thời Trần. Trong Lịch triều hiến 
chương loại chí, Phan Huy Chú còn ghi lại sự kiện: “Trần Thái Tông, 
năm Kiến Trung thứ 6 (1230), soạn sách Quốc triều hình luật, khảo định 
các lệ đời trước để làm. Hay như năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 13 
(1244), định những cách về hình luật”13. So với thời Lý, hình luật nhà 
Trần có phần chặt chẽ, nghiêm minh hơn, bởi lẽ Trần Thái Tông hiểu 
rằng, hình luật có nghiêm khắc mới mang tính răn đe người đời tránh 
phạm phải. Có như vậy mới thiết lập được trật tự, kỷ cương phép nước để 
ổn định lâu dài và phát triển. Bên cạnh đó, Trần Thái Tông còn để tâm 
đến việc xây dựng lực lượng quân sự tinh chuyên vào loại bậc nhất thế 
giới thời bấy giờ thông qua việc mở giảng võ đường, tuyển chọn trai 
tráng khỏe mạnh, sung vào hàng ngũ các loại quân, giảng dạy binh pháp, 
tinh thần thượng võ cho các quân sĩ. Sử cũ còn ghi lại sự kiện: “Năm 
1246, chọn người khỏe mạnh sung làm quân Tứ thiên, Tứ thánh, Tứ 
thần”14. Tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu xâm lược và thôn tính 
của ngoại bang, quyết tâm giữ gìn bằng được nền độc lập, tự chủ của 
quốc gia Đại Việt đã khiến vua tôi nhà Trần ra sức củng cố lực lượng 
quân sự vững mạnh, cả về số lượng lẫn chất lượng binh lính. Với số quân 
khá đông đảo như thế, để giảm bớt chi phí của nhà nước trong việc nuôi 
quân, nhà Trần thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, lúc cần nhập ngũ 
thì ra, lúc rảnh cho về làm ruộng. 
Không chỉ chú trọng về phương diện quân sự, mà nhà Trần còn quan 
tâm đến chính sách đoàn kết trong nước, thu phục các tù trưởng, trại chủ 
người Man nhằm trấn thủ ở những vị trí trọng yếu, hiểm trở. Sách Đại 
Việt sử ký toàn thư còn ghi lại sự kiện liên quan trong cuộc kháng chiến 
chống Nguyên - Mông lần thứ nhất năm 1257: “Ngày 24, vua và thái tử 
ngự lâu thuyền, tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đón đánh, cản phá được 
quân giặc. Quân Nguyên chạy trốn về, đến trại Quy Hóa, chủ trại là Hà 
Bổng chiêu tập người Man ra tập kích, lại cả phá bọn chúng”15. Đầu thời 
nhà Trần, chính quyền trung ương chưa bao giờ xao nhãng trong việc 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_nhap_the_trong_triet_hoc_phat_giao_tran_thai_tong.pdf