Tư tưởng nhân quyền của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị” và ý nghĩa lịch sử
Nhân quyền, hay quyền con người là những quyền tự nhiên của con người. Tư tưởng về
nhân quyền không phải chỉ mới xuất hiện mà từ thời cổ đại, vấn đề về con người và quyền của con
người đã được các nhà triết học quan tâm bàn đến. Aristotle là nhà triết học vĩ đại của Hy Lạp. Ông
đã để lại cho nhân loại một khối lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều lĩnh vực khác nhau của tri thức.
Trong tác phẩm “Chính trị”, lần đầu tiên, ông đã thực hiện sự khảo sát về bản chất công dân và chỉ
ra vai trò của nhà nước. Qua đó, Aristotle đã vạch ra những nét cơ bản về quyền con người. Tư
tưởng nhân quyền của ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng nhân quyền của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị” và ý nghĩa lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng nhân quyền của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị” và ý nghĩa lịch sử
ẽ khiến cho tâm hồn dễ đạt được sự cân bằng giữa tình cảm và lý trí. Aristotle cho rằng trẻ em cần được dạy những điều hữu ích và thực sự cần thiết. Việc giáo dục cần được quan tâm đặc biệt để trẻ em phát triển về thể chất cũng như đức tính: không nên để trẻ nhỏ từ 5 đến 7 tuổi ở gần dân nô lệ và tuyệt đối cấm không cho nghe những lời tục tĩu hoặc những hình ảnh dâm ô. Điều này quan trọng đến nỗi nhà nước phải ra luật cấm trên toàn quốc. Ông qui định cái phải làm từ lúc sơ sinh, những bài tập luyện mà người ta phải hay không phải bắt trẻ làm cho đến 7 tuổi. Sau 7 tuổi, giáo dục trẻ em nên chia làm hai giai đoạn: từ 7 tuổi đến dậy thì và từ dậy thì tới 21 tuổi. Đồng thời, Aristotle cũng đề nghị là dạy cho trẻ em phát triển thể chất trước khi phát triển tinh thần; cho nên, trẻ em nên được học các bài tập thể dục trước, vì huấn luyện thể chất sẽ giúp trẻ em phát triển các tập quán tốt như kỷ luật tự giác; rồi đến âm nhạc; sau cùng mới đến các môn học về tri thức. Không nên xem việc học nhằm đạt được mục đích cá nhân, mà nhằm vươn đến tinh thần tự do và năng lực tự lựa chọn. Ngoài ra, Aristotle đánh giá cao phương pháp đối thoại, tính tự nguyện trong giáo dục, nhằm hình thành nhân cách của con người tự chủ và linh hoạt. Chính phủ cũng phải kiểm soát nền giáo dục. Muốn chính thể được lâu dài, nền giáo dục phải thích hợp. Những kẻ xuất chúng phải được huấn luyện để trở thành những nhà cai trị. Toàn dân phải được huấn luyện để biết tuân theo pháp luật. Nền giáo dục còn có tác dụng thống nhất quốc gia, vượt lên trên những vấn đề chia rẽ địa phương. Nếu người thầy của ông là Plato chỉ chú trọng đến việc giáo dục các chiến binh và nhà cai trị tương lai thì ông đã xác định đối tượng của giáo dục một cách rộng rãi. Những người tài giỏi cần phải giáo dục để trở thành nhà cai trị, còn dân chúng cần phải được giáo dục để sống và hành động tuân thủ pháp luật. Như vậy, quyền được giáo dục để phát triển một cách toàn diện cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ đã được Aristotle quan tâm ngay từ thời cổ đại. Ba là, quyền được tham gia vào chính sự. Aristotle đã tiến một bước cao hơn trong tư tưởng về quyền con người khi cho rằng, đối với các thành viên của thành bang, nếu họ là những công dân thực sự thì phải tham gia vào những cơ hội mà chúng tạo ra. “Người có khả năng tham gia vào các thảo luận hoặc quản lý tư pháp của bất kỳ quốc gia nào được cho nhờ chúng ta mới trở thành công dân của nhà nước đó; và nói chung, nhà nước là một thực thể của công dân đủ cho các mục đích của cuộc sống” [7, tr.53]. Aristotle cho rằng tư cách công dân của một người không được tạo nên chỉ vì người đó sinh ra và cư trú trên một đất nước nào đó. Công dân trong chế độ Dân chủ thì khác với công dân trong chế độ Quả đầu. Tư cách công dân chỉ cần có một tiêu chuẩn để xác định: công dân là người có quyền Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 - 2019 46 tham gia chính sự và giữ những chức vụ trong chính quyền, “có nhiều loại công dân khác nhau, và người là một công dân trong ý nghĩa cao nhất là người có danh dự trong nhà nước” [7, tr.59]. Với việc khẳng định mọi công dân có đạo đức đều có quyền cai trị, tức là được phép tham gia vào những công việc của thành bang, Aristotle đã trở thành người đầu tiên đưa ra những tư tưởng về quyền con người một cách cơ bản nhất mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Tư tưởng nhân quyền trong thời đại văn minh được bắt đầu từ những nền móng đầu tiên mà Aristotle đã vạch ra cách đây khoảng 2.500 năm. Trong nhà nước lý tưởng, Aristotle đã chỉ ra “đời sống tốt đẹp nhất cho quốc gia và cá nhân là đời sống đức hạnh được trang bị bởi những cái tốt vật chất ngoại tại, và thể chất, những điều kiện cần thiết để cho con người có thể tham dự vào các hoạt động đem lại sự tốt lành cho quốc gia”. Đó chính là điều cốt lõi trong tư tưởng về quyền con người của ông. Bốn là, quyền công dân gắn liền với nghĩa vụ công dân. Người công dân trong quan điểm của Aristotle không chỉ có những quyền nhất định mà còn phải có nghĩa vụ đối với thành bang. Ông đã gắn chặt quyền và nghĩa vụ với nhau khi nói về bản chất công dân. Ông đưa ra hình ảnh so sánh, những người thủy thủ trên một con tàu giữ cho con tàu được an toàn, đi được tới mục tiêu đã định. Công dân cũng vậy, mục đích tối hậu là giữ cho sự an toàn của chế độ và đó là “đức hạnh” chung của mọi công dân. Aristotle nói “sự cứu giúp cộng đồng là công việc chung của tất cả bọn họ. Cộng đồng này là hiến pháp, do đó đạo đức của công dân phải có liên quan đến hiến pháp mà ông ta là một thành viên trong đó” [7, tr.55]. Công dân, dù giữ chức vụ lãnh đạo hay chỉ là dân thường, cũng cần phải có kiến thức và khả năng để biết lãnh đạo cũng như biết tuân phục. “Một công dân tốt phải có khả năng của cả hai (cai trị và tuân thủ), ông nên biết làm thế nào để cai trị như một người tự do, và làm thế nào để tuân thủ như một người tự do - đây là những đạo đức của một người công dân” [7, tr.57]. Riêng đối với nhà lãnh đạo, Aristotle còn đòi hỏi phải có thêm một đức tính ngoài những đức tính mà mọi công dân đều có: “Những ai chưa bao giờ học cách tuân lời thì không thể trở thành một chỉ huy tốt được” [7, tr.57] và “Người cai trị tốt là một người tốt và khôn ngoan, và rằng ai là một nhà chính trị thì sẽ phải là một người khôn ngoan. Sự khôn ngoan là đặc tính của người cai trị” [7, tr.56]. Ông cho rằng, việc công dân thực hành đức hạnh chính là việc thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Sở dĩ ông luôn đề cao đức hạnh của công dân và đạo đức của người cai trị là vì theo ông đạo đức và chính trị không tách rời nhau, xem đạo đức là cơ sở để tìm hiểu chính trị. Nghệ thuật chính trị được xây dựng trên cơ sở hiểu biết về con người, về đức hạnh công dân và đức hạnh nói chung. Khái niệm công dân hẹp hơn khái niệm con người, vì vậy phẩm chất của một công dân tốt thuộc về tất cả mọi người, nhưng phẩm chất của người tốt chưa hẳn thuộc về tất cả công dân. Vì thế nhà chính trị phải vừa là một công dân, vừa là một con người, vừa có đức hạnh công dân, vừa có đức hạnh con người nói chung. Tóm lại, nhà chính trị phải là một nhân cách cao thượng. Võ Văn Dũng 47 Trong nhà nước lý tưởng, Aristotle đã chỉ ra công dân là những người tự do có cùng gốc gác ưu tú mới là thành phần được tham gia vào chính sự. Thành phần lao động bình dân, vì không có thì giờ nhàn rỗi để học hành thành người có đức hạnh nên không thể tham gia chính sự. Tuy nhiên, thành phần này cũng là công dân và trên nguyên tắc phải được tham gia chính sự. Đây là một vấn nạn cho mô hình nhà nước lý tưởng của Aristotle cho nên ông chủ trương rằng: thành phần lao động sẽ gồm những nô lệ. Như vậy, mô hình nhà nước lý tưởng của Aristotle sẽ gồm hai thành phần: công dân thuộc giai cấp ưu tú quý tộc và lao động là nô lệ. Những công dân trẻ tuổi lo việc quốc phòng, trung niên lo việc cai trị và lão niên lo việc tế tự. Theo cách sắp xếp này, công dân sẽ tuần tự theo lứa tuổi của mình mà phục vụ quốc gia. Như vậy, Aristotle đã dành cho người công dân những quyền hết sức cơ bản và cao quý; nhưng đồng thời, ông cũng đặt ra những tiêu chuẩn mà công dân cần phải có và những nhiệm vụ mà công dân phải thực hiện. Quyền lợi phải luôn đi đôi với nghĩa vụ. Những tư tưởng mà ông đã đặt ra về quyền con người được xem như là những bước đi đầu tiên của loài người trong việc thực hiện nhân quyền. Đó là một trong những đóng góp lớn lao mà ông đã để lại cho hậu thế trong lĩnh vực tư tưởng. 3. Ý nghĩa lịch sử tư tưởng nhân quyền của Aristotle trong tác phẩm “Chính trị” Hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, những giá trị về quyền con người mà Aristotle để lại vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Theo Aristotle, mục đích của nhà nước là phục vụ lợi ích chung. Nguyên tắc trung dung được ông vận dụng trong đạo đức lẫn chính trị, tạo nên hệ chuẩn mực cần thiết để hướng tới các lợi ích phù hợp với điều kiện của thị quốc. Trong khi đó hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước phải phục vụ nhân dân, đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân và chăm lo phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân...” [1, tr.330]. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng chỉ có một mục tiêu là phục vụ lợi ích của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu phấn đấu của cách mạng nước ta, cũng là nhằm mang lại ấm no, hạnh phúc và quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Đó chính là sự vận dụng tư tưởng mục đích nhà nước là phục vụ lợi ích chung của Aristotle. Đảng ta khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, quản lý đất nước không phải chỉ là việc riêng của cơ quan nhà nước mà là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mọi nhiệm vụ quản lý của các cơ quan nhà nước trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, hành chính, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, trật tự... đều cần có sự tham gia trực tiếp của nhân dân theo Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 - 2019 48 phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thực hiện tốt phương châm này là nhằm phát huy vai trò của nhân dân lao động tham gia quản lý mọi hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này không khác mấy so với tư tưởng công dân là người có quyền tham gia vào chính sự, vào những công việc của thành bang của Aristotle. Dưới cái nhìn của Aristotle, mọi công dân có đạo đức đều có quyền cai trị. Nhiệm vụ của công dân là phải đảm bảo cho sự an toàn của chế độ. Quan niệm về đức hạnh công dân của ông cho đến nay vẫn còn được áp dụng trong việc giáo dục và đào tạo con người. Con người với tư cách thành viên của xã hội đều cần phải có ý thức về bản thân và trách nhiệm đối với xã hội. Bất kỳ chế độ nào cũng yêu cầu công dân của mình có đầy đủ những phẩm chất mà Aristotle đã nêu ra từ thời kỳ cổ đại. Mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ chủ đạo trong xã hội, vừa thể hiện vai trò của một nhà nước là phục vụ, vừa thể hiện trách nhiệm của công dân trước nhà nước và xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại với tư cách là “động vật chính trị”, là thành viên của xã hội và tham gia vào các hoạt động xã hội. Thật đúng với những điều mà Aristotle đã đưa ra trong tác phẩm “Chính trị”. Khi nói về quyền con người, Aristotle đặc biệt quan tâm đến giáo dục và xem đó là một trong những yếu tố quyết định để đạt đến nhà nước lý tưởng - là nhà nước có thể phục vụ cho lợi ích tối cao, mang lại cuộc sống “đẹp và tốt” cho con người. Ông luôn đề cao những phẩm chất mà nhà cai trị cần phải có để có thể dẫn dắt đám đông dân chúng hướng đến những điều tốt đẹp. Vai trò của giáo dục được khẳng định ngay từ thời cổ đại đã được chúng ta quán triệt. Đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng kinh tế tri thức, tiếp tục đổi mới toàn diện và chủ động, tích cực hội nhập. Trong điều kiện đó, việc giáo dục con người Việt Nam, đặc biệt là các nhà lãnh đạo, biết phát huy chủ nghĩa yêu nước truyền thống, giữ gìn bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân loại, luôn là vấn đề sống còn. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” và xem đó là một trong những nhân tố quyết định đến việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng mà Aristotle đã đưa ra như đề cao pháp luật, giáo dục, nhà nước và vai trò của nó trong việc thực hiện quyền con người, cho đến nay vẫn còn có ý nghĩa to lớn đối với những quốc gia đang xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền nói riêng, mà Việt Nam chúng ta là một trong những số đó, và những quốc gia đang khát khao một nền chính trị hòa bình, ổn định và vững mạnh nói chung. Ngày nay, mọi quốc gia đều ra sức xây dựng một hệ thống pháp luật vững mạnh, thống nhất và đặt nó ở vị trí tối cao chính là sự vận dụng những tư tưởng của Aristotle. Những lý tưởng chính trị mà ông đưa ra vẫn còn là mục tiêu hướng đến của nhiều quốc gia. Cho dù ở dưới bất kỳ một chế độ nào, vào trong một thời đại nào thì những giá trị tốt đẹp của cuộc sống (đời sống đức hạnh) cùng với nó là những quyền cơ bản và Võ Văn Dũng 49 thiêng liêng của con người mà Aristotle đã đưa ra vẫn luôn luôn có sức hút mạnh mẽ để loài người vươn đến. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho một hệ thống tư tưởng và vạch ra cho thế hệ tương lai con đường đi tìm chân lý. Đó cũng chính là mối liên hệ lịch sử sâu xa giữa Aristotle và thời đại của chúng ta. 4. Kết luận Đối với một hệ thống tư tưởng ra đời cách đây gần 2.500 năm, thì những giá trị mà Aristotle đã để lại cho nhân loại thật là đáng kính nể. Tuy nhiên trong tư tưởng của Aristotle cũng không thể tránh khỏi những hạn chế do hoàn cảnh lịch sử mang lại, nhưng nếu chúng ta biết gạt bỏ những hạn chế đó thì vẫn còn những hạt nhân hợp lý nhất định. Ông là một trong những người đầu tiên đặt những viên đá tảng để xây dựng tư tưởng nhân quyền về sau. Những tư tưởng đầu tiên về quyền con người của Aristotle đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ra sức thực hiện và bảo vệ quyền con người; xem đó là một trong những cơ sở để bước vào thế giới văn minh. Tài liệu tham khảo [1] Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2] Vương Đức Phong, Ngô Hiểu Minh (2003), Thập đại tùng thư - 10 nhà tư tưởng lớn thế giới, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [3] Nguyễn Thế Nghĩa (Chủ biên) (1999), Đại cương lịch sử các tư tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [4] Tập thể tác giả (2001), Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [5] Marcel Prelot, Georges Lescuyer, Lịch sử các tư tưởng chính trị, Tài liệu dịch của Đề tài KX 05-02, Chương trình khoa học - công nghệ KX.05. [6] Đinh Ngọc Thạch (1999), Triết học Hy Lạp cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7] Vũ Văn Viên (1998), Triết học Aristotle, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [8] Aristotle (1999), The Politics, Translated into English by Benjamin Jowett, Batoche Books, Kitchener. [9] Aristotle (2004), Nicomachean Ethics, Translated and edited by Roger Crisp, The University of Cambrige, Cambrige.
File đính kèm:
- tu_tuong_nhan_quyen_cua_aristotle_trong_tac_pham_chinh_tri_v.pdf