Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người

Trong toàn bộ tài sản tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc, tuy không có tác phẩm nào

bàn riêng về nguồn lực con người nhưng tư tưởng về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con

người lại là một tư tưởng lớn, xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng của Người. Để đẩy mạnh sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020,

một nhiệm vụ đặt ra chính là nghiên cứu, khai thác giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực

con người. Bài viết này mong muốn góp phần làm rõ nội dung, giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề

này.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người trang 1

Trang 1

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người trang 2

Trang 2

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người trang 3

Trang 3

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người trang 4

Trang 4

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người trang 5

Trang 5

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người trang 6

Trang 6

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người trang 7

Trang 7

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 4880
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai 
cấp mọi nơi”[1]. Vì vậy, “Đảng Lao động 
Việt Nam sẽ kết nạp những công nhân, 
nông dân, lao động trí óc, thật hăng hái, 
thật giác ngộ cách mạng’[5]. Trong chiến 
đấu, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ du kích 
cũng phải biết vận động tổ chức dân chúng. 
Người nói: “Nếu tập kích đánh tan được 
quân giặc, và nếu quân cứu viện của giặc 
không thể đến được thì bộ đội du kích có 
thể lưu lại chỗ tập kích ít lâu để tuyên 
truyền, tổ chức dân chúng”[2]. Nói về nông 
dân, những người tay không rồi, Hồ Chí 
Minh nhìn thấy ở họ có một sức mạnh vô 
cùng to lớn nếu họ được giác ngộ cách 
mạng và được tổ chức lại thành một khối 
thống nhất. Người nói: “Nông dân giác ngộ 
hăng hái thì kháng chiến mới mau thắng 
lợi, kiến quốc mới chóng thành công, nông 
dân mới được giải phóng”[5]. Người luôn 
tin tưởng “ta có hàng triệu chiến sĩ nông 
dân, khi đã giác ngộ thì họ là những chiến 
sĩ quyết chiến quyết thắng”[6]. Trong cách 
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã 
hội chủ nghĩa, mục đích của việc vận động, 
tổ chức dân chúng là làm cho dân chúng 
giác ngộ cách mạng là việc làm trước. 
Người nói: “Tụi tư bản và đế quốc chủ 
nghĩa nó lấy tôn giáo và văn hoá làm cho 
dân ngu, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, 
lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm cho 
dân nghe đến 2 chữ cách mệnh thì sợ rùng 
mình. Vậy cách mệnh trước phải làm cho 
dân giác ngộ”[6]. Bước vào thời kỳ xây 
dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhận 
thức sâu sắc về tính chất phức tạp, khó 
khăn của thời kỳ này. Người yêu cầu Đảng 
phải làm cho dân chúng gác ngộ cao về chủ 
nghĩa xã hội vì “Chủ nghĩa xã hội chỉ có 
thể xây dựng được dưới sự giác ngộ đầy đủ 
và lao động sáng tạo của hàng chục triệu 
người”. Có thể nói muốn phát huy nguồn 
lực trong dân chúng cụ thể là nguồn lực 
nhân dân, đầu tiên và trước hết Đảng phải 
biết vận động và tổ chức dân chúng theo 
mục tiêu chung của dân tộc. 
- Biết dùng người để phát huy nguồn lực 
con người 
Suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ 
Chí Minh đã xác lập những quan điểm cơ 
bản về thuật dùng người nhằm xây dựng và 
phát huy nguồn lực con người với tinh thần 
thực sự cách mạng và khoa học. Từ xưa 
đến nay, các bật vĩ nhân, những người làm 
nên nghiệp lớn đều có chung một tư tưởng: 
“biết mình, biết người”. Biết chính là yếu 
tố quyết định thành công “biết người mới 
dùng đúng người”. Nhưng muốn biết người 
trước hết phải tự biết mình. Hồ Chí Minh 
cho rằng con người ta nếu không tự biết 
mình thì khó biết người khác, muốn biết 
đúng sự phải trái ở người ta thì trước hết 
phải biết đúng sự phải trái ở mình. Người 
nói: “Biết người cố nhiên là khó. Tự biết 
mình cũng không phải là dễ”[5]. Từ nhận 
định sâu sắc đó Người đã chỉ ra một số căn 
bệnh làm cho người lãnh đạo không tự biết 
mình. Đó là tự cao, tự đại, ưa người khác 
nịnh mình, đem một cái khuôn khổ chật 
hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. 
Để sửa chữa những bệnh ấy Người khuyên 
cán bộ phải bỏ “kính có màu” mới có thể 
hiểu đúng cán bộ, hiểu đúng nhân tài nghĩa 
là khi xem xét nhân tài không nên chỉ nhìn 
bề ngoài, không thể chỉ xét một lúc, một 
khía cạnh, một thời điểm, một thời gian 
ngắn hoặc chỉ thấy hiện tại, mà cần có thời 
gian dài, có một quá trình, vì mọi việc đều 
80 
có sự chuyển biến, con người cũng có sự 
thay đổi về nhiều mặt, cho nên nhận xét 
con người không thể cố định, bất biến mà 
phải trong quá trình vận động, biến đổi. 
Hồ Chí Minh nói “trong thế giới cái gì 
cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng 
biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ 
quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải 
biến hóa Quá khứ, hiện tại và tương lai 
của mỗi người không phải luôn giống 
nhau”[2]. 
Mặt khác, Hồ Chí Minh cho rằng 
trong tất cả các yêu tố thì “nhân hoà” là 
quan trọng nhất nên mục tiêu của dùng 
người là đạt tới “Nhân hòa”. Dùng người 
thực chất là phát huy mọi tiềm năng của 
con người nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp 
cho khối đại đoàn kết dân tộc giải quyết 
những nhiệm vụ cách mạng. Hồ Chí Minh 
chủ trương, phát huy nguồn lực con người 
trên nền tảng dùng những người tài. Người 
tài hay nhân tài, theo Hồ Chí Minh, được 
hiểu theo nghĩa rộng rãi nhất: “tài to, tài 
nhỏ”, “người có công tâm, trung thành, sốt 
sắng với quyền lợi của Tổ quốc, nhân dân”, 
“người hiền tài”, “hiền năng”, “người hay, 
người giỏi” nhưng có chung mục đích 
“vì quyền lợi của Tổ quốc, lợi ích của đồng 
bào”. Người yêu cầu, dùng người phải 
dùng cho đúng và dùng cho khéo. Dùng 
đúng mà không khéo thì kết quả sẽ bị hạn 
chế ngược lại khéo mà không đúng thì nhất 
định sẽ hỏng việc, có khi còn hỏng cả 
“người”. Đúng là yêu cầu cơ bản đầu tiên, 
vì có đúng thì sẽ thể hiện khéo, chọn đúng 
người là thực chất của việc dùng người, là 
một khoa học. Khéo phải đảm bảo dẫn đến 
cái đúng, cái khách quan, khéo là một nghệ 
thuật. Trong cái đúng không thể không có 
cái khéo và khéo dùng người phải hướng 
tới đúng, lấy đúng làm tiền đề, làm nguyên 
tắc. Đây là biện chứng của thuật dùng 
người. 
Vậy làm thế nào để dùng đúng người 
và khéo dùng người? Theo Hồ Chí Minh, 
muốn dùng người cho đúng, cho khéo 
trước hết phải hiểu đúng, đánh giá đúng 
con người. Muốn hiểu đúng, đánh giá đúng 
thì phải thực hành thường xuyên xem xét 
cán bộ. Phải xem một cách toàn diện: 
Không chỉ ngoài mặt mà còn phải xem tính 
chất của họ. Không thể xem một việc, một 
lúc mà phải xem toàn cảnh lịch sử, toàn cả 
công việc của họ, hoặc chẳng những xem 
xét công tác của họ, mà còn phải xem xét 
cách sinh hoạt của họ. Phải biết ưu điểm 
của họ mà cũng phải biết khuyết điểm của 
họ. Muốn hiểu đúng, đánh giá đúng con 
người, cán bộlãnh đạo còn phải mạnh dạn 
giao việc cho họ, tin tưởng, yêu mến họ. 
Quá trình đánh giá đòi hỏi chúng ta cần 
phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật 
rõ ràng rồi kết luận Có như thế mới thấy 
được tài, tài mới được sử dụng. Người cất 
nhắc: “phải tùy tài mà dùng người”, “phải 
biết sử dụng đúng người đúng việc”, “phải 
biết dụng nhân như dụng mộc”, dùng 
người không nên làm như “giã gạo”, khi họ 
sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá 
lại nhắc lên vì một cán bộ bị nhắc lên thả 
xuống ba bốn lần như thế là hỏng cả đời. 
Dùng người là quan trọng, vì thế Hồ Chí 
Minh nêu ra các yêu cầu đối với tổ chức 
Đảng và người lãnh đạo trong khi đánh giá 
cán bộ: “phải tỉnh táo, sáng suốt, để phân 
biệt được đúng sai, thật giả, người tốt, kẻ 
xấu”. Lãnh đạo phải lam sao để cán bộ” có 
gan nói, có gan đề xuất ý kiến, có gan phụ 
trách, có gan làm”, để cho các cấp cơ sở 
“có quyền tự do quyết định” và quần chúng 
có “ý kiến dân chủ từ dưới lên”. Trên cơ sở 
hiểu đúng, đánh giá đúng và khéo dùng thì 
khâu lựa chọn, bố trí, cất nhắc, phân phối, 
là khâu chủ yếu nhất của việc dùng người, 
dùng cán bộ. 
- Cán bộ lãnh đạo phải biết trọng dụng, 
đãi ngộ nhân tài 
Trong những năm đầu vô cùng khó 
khăn của chính quyền cách mạng, Hồ Chí 
Minh viết một loạt bài “Về việc tiếp 
chuyện các đại biểu”; “Thư gửi các đồng 
chí tỉnh nhà”; “Thiếu óc tổ chức - một 
81 
khuyết điểm lớn trong các Ủy ban nhân 
dân”; “Nhân tài và kiến quốc” đặc biệt là 
bài “Tìm người tài đức” với những lời lẽ 
rất chân thành, kính trọng để chiêu hiền đãi 
sĩ: “Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong 
số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu 
người có tài đức”. Trong bài “Toàn dân 
kháng chiến”đăng trên báo cứu quốc ngày 
11/5/1945, Người cũng nói: “Các thanh 
niên nên cố gắng học tập các kỹ thuật để 
trở thành những tay chuyên môn nhân tài 
ứng dụng”. “Nhân tài nước ta dù chưa có 
nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa 
chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân 
tài càng ngày càng phát triển càng thêm 
nhiều”[3]. Đảng phải nuôi dạy cán bộ, 
“như người làm vườn vun trồng những cây 
cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán 
bộ, trọng mỗi một người có ích cho công 
việc chung của chúng ta”. Trọng dụng 
nhân tài cho đất nước, Hồ Chí Minh không 
chỉ trọng dung nhân tài trong Đảng mà còn 
trọng dụng những nhân tài ngoài Đảng. Hồ 
Chí Minh nói: “Chúng ta không được bỏ 
rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà 
đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết 
với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ 
giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu 
nước”[4]. Với tinh thần đoàn kết chân 
thành, không thiên kiến, không phân biệt 
phái, Hồ Chí Minh đã quy tụ nhiều tài đức, 
nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước có tên tuổi 
như: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, 
Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Phan 
Anh, Phạm Quang Lễ, Trần Hữu Tước 
cùng chung vai gánh vác việc chung. Để 
kêu gọi người tài giỏi ngoài Đảng phục vụ 
cho cách mạng, theo Người trước hết, phải 
có lòng vị tha, độ lượng vĩ đại thì mới có 
thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, 
không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi 
bị bỏ rơi; phải có thái độ vui vẻ thân mật; 
phải thương yêu cán bộ. Đối với những cán 
bộ có sai lầm thì phải phê bình cho đúng, 
cho khéo. 
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh trọng 
dụng nhân tài đi liền với đãi ngộ vì đãi ngộ 
đúng người, đúng việc là mắt khâu quan 
trọng để phát huy tài năng của họ. Từ 
những ngày đầu của cách mạng, trong 
“Mười chính sách của Việt Minh”, Người 
nói nhiều đến chính sách đãi ngộ đối với 
nông dân, công nhân, viên chức. Chính 
sách đối với nông dân thì: “Bao nhiêu thuế 
ruộng, thuế thân, Đều đem bỏ hết cho dân 
khỏi phiền”; đối với công nhân: “Công 
nhân làm lụng gian nan, Tiền lương phải 
đủ, mỗi ban tám giờ”; đối với viên chức: 
“Nào là những kẻ chức viên, Cải lương đãi 
ngộ cho yên tấm lòng”[2]. Đãi ngộ đối với 
nông dân, công nhân, viên chức là việc cần 
thiết nhưng phải hợp lí, tránh tình trạng suy 
bì đãi ngộ. Trong khi thực hiện chính sách 
đãi ngộ có hiện tượng suy bì, đòi đãi ngộ 
thêm, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nguyên 
nhân là “Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra 
đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai 
cũng muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng muốn 
phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh”[7]. 
Người yêu cầu: “Phải chống chủ nghĩa cá 
nhân so bì đãi ngộ: lương thấp, cao”, 
phải cần kiệm xây dựng đất nước[9]. Tóm 
lại, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài theo quan 
niệm của Hồ Chí Minh là biện pháp cơ bản 
nhằm phát huy tài năng, trí tuệ con người 
phục vu cho kháng chiến và kiến quốc 
thắng lợi. 
- Phải kết hợp giữa các thế hệ cán bộ 
già và cán bộ trẻ, phải có sự kế thừa giữa 
các thế hệ. 
Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi tất yếu 
phải bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng những 
người kế tục xứng đáng những người đi 
trước. Đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến 
lược. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: 
Đảng cần phải chăm lo giáo đục đạo đức 
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những 
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội 
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó không chỉ là 
lòng yêu quý mà còn giao trách nhiệm cho 
thế hệ trẻ: Từ nhi đồng, thiếu niên đến 
đoàn viên. Vì vậy, Hồ Chí Minh rất quan 
82 
tâm và yêu cầu các tổ chức Đảng, chính 
quyền phải chú ý giải quyết tốt việc chọn 
người vì “chọn người, thay người cũng là 
một vấn đề quan trọng trong việc lãnh đạo” 
[4]. Hồ Chí Minh đánh giá cán bộ già là 
vốn quý của Đảng, có nhiều công lao, kinh 
nghiệm, nhưng có một số biểu hiện dừng 
lại, công thần, “sống lâu lên lão làng”, “tị 
nạnh” Đối với lớp trẻ, hăng hái, có kiến 
thức, tiến bộ nhanh, nhưng thường thiếu 
kinh nghiệm, ít được rèn luyện, thử 
thách Vì vậy, Đảng phải khéo kết hợp 
cán bộ trẻ với cán bộ già. Hồ Chí Minh phê 
phán lớp cán bộ già “coi thường cán bộ 
trẻ”, sợ “măng mọc quá tre”, “trứng khôn 
hơn vịt”. Nếu có chọn lớp kế cận lại thích 
đưa con cháu mình vào. Trong “Bài nói 
chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt 
động lâu năm”ngày 19 - 12 - 1961, hay 
“Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ 
lãnh đạo cấp huyện”ngày 18 - 1 - 1967, Hồ 
Chí Minh nói nhiều về vấn đề này. Người 
lưu ý rằng: Tất cả cán bộ, đảng viên của 
Đảng phải vì Đảng, vì dân mà hăng hái 
phấn đấu. Nếu thế hệ trẻ không hơn thế hệ 
già thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ 
mới là tốt. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu 
cán bộ già, các tổ chức Đảng phải quan tâm 
dìu dắt thế hệ trẻ, bất kỳ ai, có khả năng, 
đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu cách mạng 
là phải dùng, phải đào tạo thanh niên cho 
họ làm việc hơn mình, không nên đố kị, 
đồng chí già phải có thái độ độ lượng coi 
đó không chỉ là yêu cầu, trách nhiệm, 
nhiệm vụ, mà đó cũng là một tiêu chuẩn 
đạo đức cộng sản chủ nghĩa. 
3. Với tầm nhìn vượt thời gian, Hồ 
Chí Minh sớm xem nguồn lực con người là 
nguồn của mọi nguồn lực. Trong mọi suy 
nghĩ và hành động, Người luôn hướng đến 
con người, quan tâm, chăm lo cho con 
người, tìm cách để phát huy mọi tiềm năng 
của con người nhất là tiềm năng trí tuệ của 
con người ở mức cao nhất để làm lợi cho 
con người. Trong suốt cuộc đời, Người chỉ 
có một ham muốn, ham muốn tột bật là 
“làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc 
lập, đông bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,ai 
cũng được học hành”. Trong những điều 
mong muốn cuối cùng của Người cũng 
không gì khác hơn là mong muốn những 
điều tốt đẹp cho nhân dân. Trong Di chúc 
Người đã viết “Điều mong muốn cuối cùng 
của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết 
phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam 
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và 
giàu mạnh”[12]. Nói đến nguồn lực con 
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nói 
đến nguồn lực trong nhân dân, sức mạnh 
của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn 
kết dân tộc, sức mạnh thể lực, trí lực, lòng 
yêu nước của những con người cụ thể đang 
ngày đêm chiến đấu bảo vệ và xây dựng tổ 
quốc. Nguồn lực đó là sức mạnh vô đối, 
nơi khơi nguồn cho mọi nguồn lực. Bước 
vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng 
ta cũng xác định: “Phát triển, nâng cao chất 
lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực 
chất lượng cao là một trong những yếu tố 
quyết định sự phát triển nhanh và bền vững 
đất nước”. Hiện nay, để đảm bảo sự phát 
triển nhanh và bền vững, những quan niệm 
của Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực 
con người là tài sản quý báu Đảng ta cần 
được vận dụng nhằm tìm kiếm biện pháp, 
cách làm phù hợp trong việc đào tạo và 
phát huy nguồn lực con người. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
83 
7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
11. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
12. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 23/11/2014 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_ho_chi_minh_ve_phat_huy_nguon_luc_con_nguoi.pdf