Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam

TÓM TẮT

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chiến lược quân sự thiên tài, người Cha của lực

lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, đồng thời là người sáng lập nền ngoại giao

Việt Nam hiện đại. Người để lại cho chúng ta những bài học quý giá về nghệ thuật

vận dụng và kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong tiến trình cách mạng

Việt Nam. Sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao đã thể hiện

sự linh hoạt sáng tạo, mềm dẻo nhưng kiên định, khôn khéo trong sách lược và

chiến lược của Hồ Chí Minh, góp phần đánh bại các thủ đoạn chiến tranh của kẻ

thù, hướng đến mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam trang 1

Trang 1

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam trang 2

Trang 2

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam trang 3

Trang 3

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam trang 4

Trang 4

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam trang 5

Trang 5

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam trang 6

Trang 6

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam trang 7

Trang 7

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 4180
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam
c linh hoạt, sáng tạo trong xử lý các tình 
huống, góp phần tích cực trong bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng ngay từ 
những ngày đầu. 
 Song song với đấu tranh ngoại giao, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã quan tâm chỉ 
đạo cuộc đấu tranh quân sự ở miền Nam trước sự khiêu khích của kẻ địch. Các hoạt 
động đấu tranh quân sự ở miền Nam đã tạo nên bức thành đồng kiềm chế và phá vỡ 
âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp ở miền Nam, buộc kẻ xâm lược 
phải tính tới việc đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh. Cuộc chiến đấu của đồng bào 
miền Nam đã hỗ trợ cho các hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh trong quyết định 
ký kết Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, giữ vững lập trường của Việt Nam tại các Hội nghị 
đàm phán Việt – Pháp cũng như Hội nghị Fontainebleau và các hoạt động ngoại giao 
của Hồ Chí Minh trên đất Pháp. 
 Với chiến thắng quân sự Biên giới Thu – Đông 1950, Việt Nam đã khai thông 
vùng giải phóng nối liền với Trung quốc, ngày 18/01/1950 đã đi vào lịch sử quan hệ 
Việt Nam - Trung Quốc như một mốc son quan trọng. Sau khi được thành lập không 
lâu, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là quốc gia đầu tiên trên thế giới thiết lập 
quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp đến, với quan điểm 
Việt Nam “sẵn sàng làm bạn với các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” 
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã mở ra bước ngoặt mới. Từ đây, 
bằng các hoạt động ngoại giao, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với các nước châu Âu và 
châu Á, Việt Nam thực sự mở ra cửa ra thế giới. Chỉ trong thời gian ngắn, đã có 10 
nước công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. 
Bằng sự ủng hộ về tinh thần và vật chất của nhân dân thế giới, thế và lực cuộc kháng 
chiến chuyển biến vô cùng nhanh chóng và dẫn tới chiến thắng Điện Biên Phủ. Chiến 
thắng quân sự có tính chất quyết định này đã buộc Pháp và can thiệp Mỹ phải ngồi 
vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở 
Đông Dương (7/1954). 
 Sau năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động xây dựng và thực hiện các 
hoạt động ngoại giao góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam. Lúc này, các quan hệ 
quốc tế mới được xác lập, quan hệ hợp tác toàn diện và chiến lược với các nước xã hội 
 143 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam 
chủ nghĩa được tăng cường. Tuy nhiên, tình hình trong nước gặp nhiều khó khăn, ở 
miền Nam, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn công khai phá hoại Hiệp định 
Genève, phá hoại hiệp thương Tổng tuyển cử. Vì vậy, cuộc đấu tranh ngoại giao đòi 
đối phương thi hành Hiệp định đã góp phần kiềm chế hành động chiến tranh của Mỹ 
và chính quyền Ngô Đình Diệm, góp phần dẫn đến thắng lợi phong trào Đồng 
Khởi(1959 – 1960). 
 Tháng 12-1960, khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được 
thành lập, các hoạt động ngoại giao của hai miền Bắc - Nam với phương châm “tuy hai 
mà là một, tuy một mà hai" đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của toàn dân 
tộc. Đặc biệt, ta đã mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”, phát huy tối đa hiệu quả của 
những thắng lợi ở chiến trường trên bàn đàm phán. Những cuộc đấu trí cam go trên 
bàn đàm phán giữa các nhà chính trị, ngoại giao Việt Nam với các đối thủ sừng sỏ, lão 
luyện đến từ nền ngoại giao nhà nghề hàng đầu thế giới đã khẳng định bản lĩnh và trí 
tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. 
 Tháng 12-1965, tại Hội nghị Trung ương 12 (khóa III), Chủ tịch Hồ Chí Minh và 
Trung ương Đảng chỉ rõ: “ta phải giữ vững quyết tâm chiến lược, đồng thời áp dụng sách 
lược đấu tranh chính trị và ngoại giao khôn khéo để phối hợp với đấu tranh quân sự, chủ động 
tiến công địch”[11, tr.310]. Tiếp đến tháng 1-1976, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, 
Đảng Lao động Việt Nam nhất trí đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao: "Chúng ta chỉ có thể 
giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy 
nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, 
mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh 
ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động"[3, tr.174]. Thực hiện chủ 
trương đấu tranh ngoại giao mới, Việt Nam đề ra khẩu hiệu mang tính sách lược: chỉ 
sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến 
tranh chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với 
Mỹ có thể nói chuyện được. 
 Song song với đòn đấu tranh ngoại giao, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí 
Minh đã động viên quân và dân cả nước đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, toàn dân, 
toàn diện, kết hợp chiến tranh du kích khắp nơi với những đòn đánh quyết định của 
quân chủ lực và nổi dậy của đông đảo quần chúng nhân dân, kết hợp quân sự và ngoại 
giao, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Còn trên các chiến trường, Đảng 
đề ra phương châm: kéo địch ra khỏi hang ổ mà đánh, căng địch ra mà đánh, luồn sâu 
vào hậu phương địch mà đánh. Vì thế, ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng dồn 
Mỹ và chính quyền Sài Gòn vào thế bị động đối phó, khiến đối phương lần lượt thất 
bại cả hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967 ở miền Nam và 
thất bại trong cuộc leo thang phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc. Tháng 
12/1967, Bộ Chính trị đã họp đánh giá tình hình tương quan lực lượng trên chiến 
trường và khả năng phát triển của cách mạng. Bộ Chính trị đã kết luận: “Diễn biến cơ 
 144 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 3 (2020) 
bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị 
động và khó khăn. Tình hình chung cho phép ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của 
ta sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định” [10, tr. 406]. Dưới sự lãnh đạo 
của Đảng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra tại 4 thành phố lớn, 44 thị xã, quận lỵ 
và hàng trăm thị trấn ở miền Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã làm đảo lộn 
thế trận của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở chiến trường miền Nam, làm rung chuyển 
nước Mỹ, đánh bại ý chí giành chiến thắng bằng quân sự của giới cầm quyền Mỹ trong 
cuộc chiến tranh Việt Nam; buộc Mỹ phải ngừng ném bom miền Bắc, trừ khu phi quân 
sự; ngày 13-5-1968, Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán ở Paris về Việt Nam, mở đầu cho 
một thời kỳ đấu tranh ngoại giao sôi động, đạt tới đỉnh cao trong việc sử dụng nghệ 
thuật vừa đánh, vừa đàm. 
 Đầu năm 1969, sau khi thắng cử, một mặt, Tổng thống Richard Nixon ra “Học 
thuyết Nixon” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, mặt khác, để cô lập cuộc 
kháng chiến của nhân Việt Nam và tạo thế mạnh cho Mỹ trong việc mặc cả với Việt 
Nam trên bàn đàm phán, Mỹ đã cải thiện quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc. Suốt quá 
trình đàm phán, Mỹ luôn đòi “hai bên cùng rút quân” nhưng không được Việt Nam 
chấp nhận, nên ngày 10-11-1971, Mỹ phải gác yêu sách phi lý này. Sau ba năm kiên trì 
đấu tranh, kết hợp vừa đánh vừa đàm, Việt Nam đã buộc Mỹ đơn phương rút gần 40 
vạn quân về nước. Về phía Việt Nam, những thắng lợi trong mùa khô 1969 - 1970 và 
1970 - 1971 tạo điều kiện cho ta mở cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972, khiến Mỹ 
và chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bất ngờ, sụp đổ từng mảng, đặc biệt ta giải phóng 
hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, khu vực Bắc Kon Tum và thị trấn Lộc Ninh ở miền Đông 
Nam Bộ, tạo thời cơ, điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao, 
đưa đàm phán Paris đi vào bước mới từ tháng 7-1972. Thế nhưng, với bản chất ngoan 
cố, tráo trở và hy vọng giành thế chủ động trên bàn đàm phán để có thể rút quân trong 
thế thắng, từ ngày 18 đến ngày 30-12-1972, chính quyền Nixon điên cuồng đánh phá 
Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố, xí nghiệp ở miền Bắc. Tuy nhiên, do Chủ tịch 
Hồ Chí Minh dự báo từ trước (trước khi Người mất vào tháng 9 – 1969) nên Việt Nam 
đã có sự chủ động về chiến lược vì vậy đã đánh bại cuộc tập kích đường không của 
Mỹ, hạ gục uy thế của “không lực Hoa Kỳ”, làm nên chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên 
Phủ trên không” chấn động nước Mỹ và thế giới, buộc Mỹ phải nối lại đàm phán và 
ngày 27-1-1973 đã ký kết Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt 
Nam. 
 Sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ mặt trận quân sự và ngoại giao đã buộc Mỹ 
phải dần xuống thang, đi vào đàm phán theo các điều kiện của ta, ký Hiệp định hòa 
bình Paris tháng 01-1973 và rút quân khỏi Việt Nam trong khi các lực lượng cách mạng 
vẫn được ở lại miền Nam. Hội nghị Paris đã kéo dài trong hơn 3 năm, trong các phiên 
họp chính thức, cũng như trong các cuộc đàm phán “hành lang”, các nhà ngoại giao 
Việt Nam đã khiến cho kẻ địch phải kính nể về tính kiên trì, sự khôn khéo trong đấu 
 145 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam 
tranh. Qua đó, ta đã thực hiện đúng chủ trương mà Đảng và Hồ Chí Minh đề ra là 
“đánh cho Mỹ cút” để tiến tới “đánh cho ngụy nhào”. Hiệp định Paris về chấm dứt 
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là một trang sử chói lọi của ngoại giao Việt 
Nam thời đại Hồ Chí Minh. 
 Như vậy, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam luôn phối 
hợp đấu tranh hiệu quả mặt trận ngoại giao và quân sự huy động được sức mạnh của 
ngoại giao Nhà nước với ngoại giao nhân dân và hoạt động quốc tế của Đảng phục vụ 
cho cuộc chiến của cách mạng Việt Nam. Thắng lợi trên chiến trường là cơ sở cho 
thắng lợi ở bàn đàm phán và hoạt động ngoại giao phát huy thắng lợi quân sự trong 
đàm phán tạo ra thế và lực mới cho toàn bộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Chủ 
tịch Hồ Chí Minh luôn cho rằng, ngoại giao chỉ phát huy vai trò và công dụng trên cơ 
sở thực lực dân tộc, trên nền tảng sức mạnh tổng hợp của đất nước từ mọi phương 
diện: kinh tế, chính trị, quân sự... Người viết: “Nếu tự mình không có thực lực làm cơ sở 
thì không thể nói gì đến ngoại giao”[6, tr. 488]. Người còn ví dụ: “Thực lực là cái chiêng mà 
ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” [7, tr. 147]. Có nghĩa là, thắng lợi ngoại 
giao lớn hay nhỏ, hoạt động ngoại giao thuận lợi hay khó khăn tùy thuộc vào thực lực 
của dân tộc, đất nước. Thực tế đã chứng minh quan điểm đó của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh là đúng đắn. Rõ ràng, nếu không có những chiến thắng to lớn của quân và dân ta 
trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp thì không thể có Hội nghị và Hiệp định 
Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương năm 1954. Trong 
kháng chiến chống Mỹ, Người nói: “Bây giờ nội trong nước ta cứ đánh cho thắng, thì ngoại 
giao dễ làm ăn”[8, tr. 61]. Sự liên kết chặt chẽ giữa quân sự và ngoại giao dẫn đến yêu 
cầu phải phối hợp nhịp nhàng các hoạt động đó trong một cuộc đấu tranh. Nếu không 
có thắng lợi của quân và dân hai miền Nam - Bắc, nhất là thắng lợi của trận “Điện Biên 
Phủ trên không” vào cuối năm 1972, thì không có thắng lợi của Hiệp định Paris về 
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, năm 1973. Trước đó, Người đã tổng 
kết: “Ngoại giao ở Hội nghị Genève thắng lợi là vì Điện Biên Phủ đánh thắng lớn. Bây giờ 
cũng thế, đánh thắng lợi thì ngoại giao thắng nhiều. Không cứ gì ở ta mà ở nước nào cũng vậy. 
Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình 
phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng”[9, tr. 60-61]. Mặt khác, thắng lợi trên mặt trận 
ngoại giao sẽ tạo tiền đề để tăng cường thực lực cách mạng, tạo “thế” cho đất nước. 
 Có thể nói, với sự kết hợp giữa đấu tranh ngoại giao và quân sự, Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đã có những cống hiến to lớn, góp phần đánh bại các thủ đoạn chiến tranh 
của kẻ thù. Nghệ thuật đấu tranh kết hợp quân sự và ngoại giao dưới sự chỉ đạo trực 
tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước tạo ra thế và lực mới, tác động trở lại trên 
chiến trường, góp phần làm nên thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam. Nghệ thuật 
vừa đánh vừa đàm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện sự linh hoạt sáng tạo, mềm dẻo 
nhưng kiên định, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thực lực và dư luận; thể hiện khôn 
khéo về sách lược và chiến lược, góp phần quy tụ được sức mạnh của dân tộc với sức 
 146 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 3 (2020) 
mạnh thời đại, đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn hướng đến mục 
tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Bộ Ngoại giao (2002). Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia Sự 
 thật, Hà Nội. 
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28, Nxb. Chính trị quốc gia Sự 
 thật, Hà Nội. tr. 174. 
[4]. Học viện Quan hệ quốc tế (2001). Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do 
 (1945 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[5]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 
[6]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, Tập 3 Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 
[7]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 
[8]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 
[9]. Học viện Quan hệ quốc tế (2001). Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do 
 (1945 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[10]. Những sự kiện lịch sử Đảng (1985), tập III, Nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà Nội, 
 trang.406. 
[11]. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995). Lịch sử Đảng 
 Cộng sản Việt Nam 1954 - 1975, Tập 2, Nxb . Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 HO CHI MINH’S IDEOLOGY ON COMBINATION BETWEEN MILITARY AND 
 DIPLOMATIC STRUGGLES IN THE VIETNAMESE REVULUTION 
 Nguyen Thi Thanh Huyen 
 University of Sciences, Hue University 
 Email: ntthuyenhue@yahoo.com.vn 
 ABSTRACT 
 President Ho Chi Minh, a genius military strategist, is not only the founder and 
 trainer of the Vietnam People's Armed Forces but also the founder of Vietnam’s 
 diplomacy. He left behind the valuable lessons on the art of applying and 
 combining military and diplomatic struggles in the process of the Vietnamese 
 147 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam 
 revolution.The combination of military and diplomatic struggles has shown 
 creative flexibility but firmness, clever expression of policy and strategy, 
 contributing to defeating the war tactics of . the enemy, towards the goal of 
 struggling to liberate the South and reunify the Fatherland. 
 Keywords: diplomacy, Ho Chi Minh, millitary. 
 Nguyễn Thị Thanh Huyền sinh ngày 27/12/1980. Bà tốt nghiệp cử nhân 
 Sử học năm 2003, tốt nghiệp Thạc sĩ năm 2008, bảo vệ Luận án Tiến Sĩ 
 năm 2016. Từ năm 2003 đến nay, bà là giảng viên tại Trường Đại học 
 Khoa học, Đại học Huế. 
 Lĩnh vực nghiên cứu: Triết học 
 148 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_ho_chi_minh_ve_ket_hop_dau_tranh_quan_su_va_ngoai_g.pdf