Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo là những chỉ
dẫn tuyệt vời mà ngày nay chúng ta còn phải tiếp tục đào sâu, nghiên cứu kỹ. Bản thân
Người cũng là mẫu mực của một cán bộ làm công tác tôn giáo không những giỏi về nghệ
thuật quản lý mà còn giỏi về việc vận động đồng bào có đạo với những phương thức linh
hoạt. Vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay sẽ đảm
bảo cho các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, vạch trần mọi mưu toan của các thế lực
thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo
nghĩa Mác với tôn giáo và các học thuyết có tính tiến bộ, đó là mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Đây là một đặc điểm lớn được Hồ Chí Minh khai thác một cách tài tình và triệt để trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo. Để giáo dục lòng yêu nước thương nòi, giác ngộ ý thức cách mạng cho đồng bào các tôn giáo, Hồ Chí Minh thường trích dẫn những lời hay ý đẹp trong Kinh Phật, Kinh Thánh,, rồi chuyển tải, định hướng những lời hay ý đẹp đó theo một thế giới quan và nhân sinh quan mới – thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng. Chẳng hạn, Người viết: “Trong Công giáo có câu: “Tam vị nhất thể”, nhà Phật có câu: “Vạn chúng nhất tâm” nên chúng ta phải hy sinh cho nhân loại và chúng sinh” [3, tr. 116]. Trong lĩnh vực giáo dục ý thức chính trị, nhằm khơi dậy truyền thống đấu tranh bất khuất, ý chí tự lập tự cường của dân 5 tộc, Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào đồng bào các tôn giáo bởi tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc sâu sắc của họ. Người viết: “Phần lớn đồng bào tôn giáo, nhất là các tầng lớp lao động đều yêu nước kháng chiến, như Công giáo ở nhiều nơi, như Cao Đài kháng chiến, v.v” [7, tr. 461]. Chính niềm tin ấy của Người là động lực tinh thần to lớn để đồng bào các tôn giáo một lòng một dạ đi theo cách mạng, đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nước nhà. Thứ hai, công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo phải biết tôn trọng giáo chủ và các chức sắc tôn giáo. Các tín đồ tôn giáo luôn luôn có một lòng sùng kính và tôn vinh những vị giáo chủ của mình, như Thích Ca Mâu Ni, Đức chúa Giê-su,...Cho nên để đập tan âm mưu chia rẽ của kẻ thù và để tăng cường sự hòa hợp, đoàn kết giữa tín đồ các tôn giáo với toàn thể dân tộc thì việc tôn trọng giáo chủ của các tín đồ tôn giáo và các chức sắc tôn giáo là điều hết sức cần thiết. Hồ Chí Minh mượn lời cầu nguyện của Chúa Kitô: “Nguyện cho hết thảy đồng bào hoàn toàn hợp nhất với nhau” [9, tr. 285]. Khi phát động phong trào thi đua yêu nước, kháng chiến kiến quốc, Người đã trích dẫn tinh thần trong Kinh Phúc âm và khẳng định: “Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là những việc Chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm. Cho nên tôi chúc đồng bào Công giáo làm trọn chính sách của Chính phủ cũng là làm trọn tinh thần của Chúa Cơ đốc” [8, tr. 197]. Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác vận động đối với các chức sắc tôn giáo. Người luôn động viên, khơi dậy lòng yêu nước thương nòi, giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Người luôn biểu lộ sự tôn trọng, quan tâm đối với các chức sắc tôn giáo và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của họ. Ngay cả những Giám mục bị bọn đế quốc phản động lợi dụng như Giám mục Lê Hữu Từ, Người cũng có thái độ ứng xử rất mềm dẻo, chân tình, lựa lời khuyên giải để vị Giám mục này trung thành với Chính phủ. Đồng thời, Người cũng có thái độ xử sự dứt khoát, kiên quyết trừng trị những kẻ mượn tiếng đạo, làm nhục Chúa, làm hại dân. Đối với kẻ lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào chống lại Tổ quốc, Người chỉ rõ: “Chính phủ sẽ nghiêm trị những kẻ lừa bịp, cưỡng bức đồng bào phải lìa bỏ quê hương, sa vào một đời sống tối tăm cực khổ về phần xác cũng như phần hồn” [10, tr. 606]. Đặc biệt, trong các dịp lễ trọng đại của các tôn giáo, Người không quên chúc phúc, an lành đến các chức sắc và tín đồ các tôn giáo. Hồ Chí Minh chân thành bày tỏ và khẳng định: “Ý dân là ý Chúa”. Con đường yêu nước mà đồng bào đang đi là hoàn toàn đúng. Tôi mong các cụ phụ lão, các vị giám mục và các linh mục hăng hái khuyến khích tín đồ trong mọi công việc ích nước, lợi dân” [11, tr. 314]. Đồng thời, Người cũng kịp thời động viên, khen ngợi, tuyên dương những người có công lao, thành tích đóng góp cho cách mạng. Trong Thư gửi đồng bào các tôn giáo Cao Đài, Hòa Hảo, Người viết: “Hai phái đạo Cao Đài do cụ Cao Triều Phát lãnh đạo luôn luôn cùng đồng bào toàn quốc hăng hái kháng chiến. Tổ quốc và Chính phủ sẽ nhớ công những người con trung thành” [6, tr. 422]. Tình cảm chân thành, trọng thị của Hồ Chí Minh với giáo chủ và các chức sắc tôn giáo đã góp phần củng cố lòng tin, tăng cường sự nhất trí, đoàn kết giữa các tín đồ, chức sắc tôn giáo với toàn thể dân tộc, để ngày càng 6 xích lại gần nhau, hoạt động vì lợi ích chung của toàn thể dân tộc. Thứ ba, công tác vận động tín đồ tôn giáo phải quan tâm xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa cho đồng bào có đạo. Theo Hồ Chí Minh, nội dung công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo phải thiết thực, không dừng lại ở việc tuyên truyền, thuyết phục, mà quan trọng hơn, phải xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa ngày càng phát triển cho đồng bào. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào ở những vùng đông người theo đạo. Trong Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận, Người huấn thị: “Phải ra sức củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho xã viên. Đồng thời phải đảm bảo tín ngưỡng tự do. Nhưng hoạt động tôn giáo không được cản trở sản xuất của nhân dân, không được trái với chính sách và pháp luật của Nhà nước” [10, tr. 606]. Từ lập trường duy vật mác-xít, Người động viên đồng bào: “Từ nay với sự cố gắng của đồng bào, sản xuất sẽ ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được yên vui, việc đấu tranh giành thống nhất Tổ quốc, giữ gìn hòa bình càng chóng thắng lợi như bài hát: “Sáng danh Thiên chúa trên các tầng giời, hòa bình cho người lành dưới thế”” [9, tr. 285]. Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến đời sống của đồng bào tôn giáo, chăm sóc cả “phần xác” và “phần hồn”. Theo Người, “phần xác có no ấm thì phần hồn mới thong dong”, từ đó Người chỉ đạo Chính phủ cần có chính sách cụ thể để cải thiện cuộc sống cho đồng bào. Đối với “phần hồn” của đồng bào tôn giáo, Người không chỉ đánh giá cao giá trị của văn hóa tôn giáo, mà còn trực tiếp quan tâm tới sinh hoạt tôn giáo. Người đã nhiều lần đến các chùa chiền, nhà thờ với tấm lòng thành kính dự các lễ nghi tôn giáo như: Lễ Phật đản, Lễ Giáng sinh,... Thứ tư, phải quan tâm đến việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của người cán bộ làm công tác vận động quần chúng, bởi vì chính họ là những người tuyên truyền, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đồng bào các tôn giáo. Người khẳng định, cán bộ là gốc của mọi công việc và công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo cần phải có những phẩm chất sau: Một là, phải nắm vững chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và chính sách, pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo nói riêng. Bởi vì: “Bất cứ việc to, việc nhỏ, lập trường phải vững, chính sách phải hiểu cho thấu, luôn luôn gần gũi học hỏi nhân dân, đi đúng đường lối quần chúng thì việc gì cũng thành công. Trái lại, thì thất bại” [8, tr. 55-56] và “nếu cán bộ không nắm vững chính sách, không đi đúng đường lối quần chúng thì chính sách hay cũng hóa dở, tốt cũng hóa xấu”, “nếu làm sai chính sách không những dân ghét cán bộ, mà còn oán Chính phủ, oán Đảng” [8, tr. 55]. Hồ Chí Minh từng nói về vai trò của đội ngũ cán bộ làm công tác vận động đồng bào tôn giáo như sau: “Ở Việt Nam có vấn đề tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo; nơi nào cán bộ tốt, tổ chức hợp tác xã đưa lại quyền lợi cho giáo dân thì giáo dân rất đồng tình” [11, tr. 118]. Ngược lại, “nơi nào dân cũng tốt, lương cũng như giáo; 7 nhưng vì có những cán bộ không biết tổ chức, không biết giải thích tuyên truyền, lại tự tư, tự lợi, không cảnh giác để cho bọn phản động chui vào các đoàn thể rồi phá hoại” [8, tr. 55]. Hai là, phải có kiến thức nhất định về tín ngưỡng, tôn giáo; am hiểu đặc điểm địa bàn công tác. Cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo phải là người am hiểu giáo lý, giáo luật của các tôn giáo để khi giao tiếp, nói được ngôn ngữ tôn giáo với đồng bào có đạo. Người không chỉ viết thư thăm hỏi, chúc mừng khi Lễ Giáng sinh, Lễ Phật đản mà còn chia sẻ với các tín đồ bằng tình cảm sâu sắc. Với Công giáo, Người kêu gọi họ “Phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc”, “Kính chúa, yêu nước”. Với đồng bào Phật giáo, Người động viên các tín đồ hãy hành động theo lời Đức Phật: “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”. Còn với đồng bào Cao đài, Hòa Hảo, Người thúc đẩy lòng “ái quốc”,..v.vHiểu rõ các tôn giáo, Người biết chắt lọc những tinh hoa của các tôn giáo để vận động đồng bào có cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. . Trong bài học về sáu điều nên làm và sáu điều không nên làm dành cho cán bộ, đảng viên, bộ đội thì điều thứ năm ghi rõ: “Không nên xúc phạm đến tín ngưỡng phong tục của dân (như nằm trước bàn thờ, giơ chân lên bếp, đánh đàn trong nhà, v.v.)” [6, tr. 409-410] và điều thứ năm nên làm là: “Nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi nơi, trước là để gây cảm tình và sau để dần dần giải thích cho dân bớt mê tín” [6, tr. 409-410]. Khi tuyên truyền ở những vùng có nhiều tín đồ tôn giáo thì người cán bộ phải biết hòa mình vào trong đời sống hằng ngày của họ. Người lấy ví dụ về đồng chí Lý An “Đến thôn thấy đồng bào lợp nhà, đồng chí An lên lợp nhà giúp,Đồng chí không nói mình là cán bộ, không tuyên truyền thuế, dân công gì cả. Đồng chí ấy chỉ nói những chuyện: bộ đội chiến thắng thế nào, nhân dân các nơi hăng hái đi dân công và đóng thuế nông nghiệp như thế nào. Đồng bào nghe chuyện thích đòi đồng chí ấy nói chuyện này qua chuyện khác. Kết quả, họ tự động xin đóng thuế, xin đi dân công” [7, tr. 393]. Ba là, phải có phương pháp đúng đắn, phù hợp trong việc vận động quần chúng tín đồ tôn giáo. Nhấn mạnh đến phương pháp vận động quần chúng của cán bộ, Người cho rằng, đồng bào thiểu số hay đa số, lương hay giáo, cán bộ biết cách làm thì đều vận động được. Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có phương pháp trong việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục. Người dặn dò người cán bộ phải thực sự “ba cùng” (cùng sống, cùng ăn, cùng làm việc) với nhân dân. Đặc biệt: “Phải biết nhẫn nại. Nói với người nghe một lần người ta không hiểu thì nói đến hai lần, ba lầnVề đức tính này, phải học những người đi truyền giáo” [5, tr. 64]. Hồ Chí Minh cho rằng, không nên dùng lý luận cao siêu, những lời lẽ phức tạp trong công tác tuyên truyền, vận động. Người phê bình, uốn nắn các cán bộ cố nhồi nhét chủ nghĩa Mác – Lênin cho đồng bào có đạo. Người không đồng tình với cách: “Đối với nông dân Công giáo, có đội đã đưa chủ nghĩa Mác – Lênin ra giải thích” [8, tr. 332]. Người thường nói những điều vừa tầm, phù hợp với trình độ dân chúng và tình cảm của giáo dân, như việc tuyên truyền tình cảm yêu quê hương, đất nước, nhu cầu về độc lập dân tộc và tự do tín ngưỡng vốn là nhu cầu thiết thân đối với họ. Người căn dặn, trong công tác tuyên truyền, vận động, tốt nhất là nên 8 miệng nói, tay làm, tai lắng nghe, làm gương cho người khác, từ cử chỉ đến diện mạo, từ đạo đức đến tác phong: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” [6, tr. 552]. Đặc biệt, phương pháp vận động quần chúng tín đồ tôn giáo phải biết gắn nhiệm vụ của cách mạng với lý tưởng của những người sáng lập ra các tôn giáo. Người thường trích dẫn lời lẽ trong Kinh Thánh, Kinh Phật nhằm động viên tín đồ các tôn giáo tham gia tích cực vào sự nghiệp cứu nước, kiến quốc. Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác tuyên truyền cho đồng bào tín đồ các tôn giáo hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ để họ tự giác thực hiện và đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng tôn giáo của địch. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Khi phát động quần chúng, cán bộ phải hết sức chú ý đến điều đó. Sai một ly đi một dặm, nơi nào dân cũng tốt, lương cũng như giáo; nhưng vì có cán bộ không biết tổ chức, không biết tuyên truyền, lại tự tư tự lợi, không cảnh giác nên đã để cho bọn phản động chui vào các đoàn thể rồi phá hoại” [7, tr. 395]. 3. KẾT LUẬN Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo là một nội dung quan trọng trong hệ thống lý luận của Người về cách mạng Việt Nam. Đó là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề “tính chất quần chúng của tôn giáo”, phù hợp với đặc điểm tôn giáo, xã hội và con người Việt Nam. Tư tưởng đó đã trở thành quan điểm nhất quán xuyên suốt mọi thời kỳ cách mạng do Đảng lãnh đạo. Vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay sẽ đảm bảo cho các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, vạch trần mọi mưu toan của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo là những chỉ dẫn tuyệt vời mà ngày nay chúng ta còn phải tiếp tục đào sâu, nghiên cứu kỹ. Bản thân Người cũng là mẫu mực của một cán bộ làm công tác tôn giáo không những giỏi về nghệ thuật quản lý mà còn giỏi về việc vận động đồng bào có đạo với những phương thức linh hoạt. Người lôi cuốn được đông đảo đồng bào có đạo theo cách mạng không chỉ bằng đường lối đúng đắn mà còn bằng cả trái tim nhiệt huyết, chân thành và những hiểu biết sâu rộng của mình về tôn giáo. Đó là tấm gương sáng mà tất cả chúng ta cần phải học tập để góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Hồ Chí Minh (1994), Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9 4. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 5. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.8, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 10. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 11. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. * Ngày nhận bài: 17/12/2014 Biên tập xong: 01/3/2015 Duyệt đăng: 20/3/2015
File đính kèm:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_cong_tac_van_dong_quan_chung_tin_do.pdf