Tư tưởng cải cách triết học của Ludwig Feuerbach trong tác phẩm "Những nguyên lý của triết học tương lai" và ý nghĩa của nó
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuối những năm 30 – đầu những năm
40 của thế kỷ XIX, tại Đức, các cuộc
đấu tranh tư tưởng giữa giai cấp tư
sản và lực lượng phong kiến ngày
càng lên cao. Tình trạng chia cắt đất
nước đã cản trở sự phát triển của
công nghiệp và thương nghiệp. Bên
cạnh đó, giai cấp tư sản bấy giờ đứng
trước hai lực lượng mà họ cho là đều
đáng ngại như nhau – lực lượng của
“quá khứ” và lực lượng của “tương lai”.
Trong bối cảnh này tầng lớp tư sản
trung lưu chọn giải pháp dung hòa với
chế độ quân chủ - né tránh sự va
chạm trực tiếp với chế độ hiện hành
bằng việc phê phán triết học Kitô giáo
chính thống; một bộ phận khác theo
khuynh hướng dân chủ tư sản lại
muốn đưa nước Đức thoát khỏi tình
trạng hiện có. Trong số những đại
biểu tiêu biểu của khuynh hướng dân
chủ tư sản nổi bật là Ludwig
Feuerbach (L. Feuerbach). Triết học L.
Feuerbach không nằm ngoài dòng
chảy của triết học cổ điển Đức được
hình thành vào cuối những năm 30 –
đầu những năm 40 của thế kỷ XIX.
Tác phẩm Những nguyên lý của triết
họ ương lai được L. Feuerbach viết
và hoàn chỉnh vào năm 1843, tác
phẩm là sự tiếp nối của ông trong việc
phê phán Cơ Đốc giáo và nền chuyên
chính tinh thần kết hợp với chế độ
quân chủ Phổ làm mất tự do, cả tự do
về tinh thần của con người
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng cải cách triết học của Ludwig Feuerbach trong tác phẩm "Những nguyên lý của triết học tương lai" và ý nghĩa của nó
hững luận điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, đồng thời đem đến cách hiểu mới về con người, khác với chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII, khi công thức “con người – cỗ máy” trở thành điểm nhấn trong nhân sinh quan của R. Descartes, T. Hobbes, La Mettrie... L. Feuerbach (2015: 60) chứng minh rằng, triết học mới “chỗ đứng của nó mang tính duy lý, bản ngã, ý thức trong tâm trí họ được hiểu một cách đơn giản hoặc trong Chúa, nó cao NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 18 nhất và cuối cùng của cả nền triết học kinh viện”. Học thuyết triết học về con người căn cứ vào chất liệu của các khoa học khác nhau để hình thành cách tiếp cận phù hợp, giải thích xác đáng cái căn bản nhất trong quan hệ giữa người với người, khác hoàn toàn với lối giải thích tư biện và thần bí về cái gọi là chiều sâu tâm hồn con người. Tư tưởng nhân văn của L. Feuerbach gắn kết hữu cơ với khoa học tự nhiên, thậm chí ông còn xem thuyết nhân bản như đỉnh cao của khoa học tự nhiên. Khoa học triết học mới theo L. Feuerbach thoát khỏi cách tiếp cận tư biện, cố gắng lý giải mối quan hệ liên tục giữa tư duy với các quá trình vật chất được thực hiện trong cơ thể con người, với tri giác cảm tính. Đối với L. Feuerbach, sự tồn tại là một nhận thức, cảm xúc và tình yêu. Ông chỉ ra, bản thân Thiên Chúa Kitô cũng chỉ là một sự trừu tượng từ tình yêu của con người. 2.3.2. Yêu thương và quý trọng con người Thế nào là triết học mới? Theo L. Feuerbach, triết học mới phải khác về căn bản với triết học cũ bằng việc đem đến câu trả lời hoàn bị về bản chất chân chính, hiện thực và toàn diện về con người, đối lập với quan điểm của tôn giáo và triết học tư biện, là quan niệm phi nhân, siêu tự nhiên về con người. Triết học chân chính cần phải tuyệt giao với các nguyên tắc tư biện, với các nguyên lý của chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Để điều đó được thực hiện, cần xem xét bản chất thực sự của con người là nguyên tắc chủ đạo. Ông (2015: 167) nói: “Triết lý mới như sự phủ định của thần học, phủ nhận sự thật của tôn giáo Nhân chủng học là tôn giáo của chính nó”. Quan điểm đạo đức chiếm vị trí đáng kể trong triết học L. Feuerbach nói chung, tác phẩm Những nguyên lý triết họ ương i nói riêng, và được đề cập như phần sống động của tư tưởng nhân văn, với những nét đặc trưng được trau chuốt cho thích ứng với xã hội thời ông. Triết lý tình yêu, hạnh phúc, tự do được Feuerbach gắn kết với quan niệm về mục tiêu tinh thần của nhân loại – tôn giáo của tình yêu, tương tự như “nhân đạo giáo” của Auguste Comte. Con người trong quan điểm của L. Feuerbach khác với các nhà triết học trước là con người “bằng xương bằng thịt”, không phải con người chỉ có ý thức mà con người tồn tại, là khách thể của sự sống, khách thể của chính họ; con người với những giác quan của họ, bao hàm trong đó là nhận thức, cảm xúc và tình yêu. Chỉ trong cảm xúc, con người là tuyệt đối, riêng biệt. Để lý giải về tình yêu với con người là một sự mê hoặc, riêng biệt, một dấu hiệu để phân biệt với “loài” nói chung, trong tác phẩm Bản chất của Kitô giáo, L. Feuerbach (2012: 8) đã từng đặt câu hỏi: “Bằng cách nào con người có thể chống lại cảm xúc, yêu thương trong yêu thương, một lý trí sáng suốt?”. Ông trả lời: cảm xúc là dấu hiệu đặc biệt của sự tồn tại ở con người, chỉ ở trong cảm xúc, tình yêu TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 19 mới là khách thể của sự đam mê, thực tiễn. Tình yêu, nỗi đau, cảm xúc là những thuộc tính vốn chỉ tồn tại ở con người, con người trần trụi được nhận thấy rõ ràng, không trừu tượng, bí ẩn. Cảm xúc, sự chứa đựng độ sâu chân thành nhất, cái gì vốn có ở con người, tự nó đã là thần thánh. Yêu con người, yêu chính mình là điểm bắt đầu của quá trình vươn ra cộng đồng. Yêu bản thân không có nghĩa là chỉ yêu bản thân mình. Nói yêu bản thân chỉ đơn giản là khẳng định cái Tôi trước cái khác. Yêu – đó không phải là chủ nghĩa vị kỷ mà là khắc phục nó. Con người làm chủ tình yêu, hay tình yêu làm chủ con người? L. Feuerbach từng hỏi như thế. Và ông nhấn mạnh: khi tình yêu kích thích con người với niềm vui, thậm chí đi tới cái chết vì người mình yêu, thì đó chính là sức mạnh cá nhân tự tại hay đúng hơn, sức mạnh của tình yêu. Khát vọng hạnh phúc cá nhân gắn liền với khát vọng hạnh phúc của mọi người – ý tưởng ấy cần trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, thành thông điệp xã hội. Khi anh yêu người khác, anh hóa thân thành người khác bằng tình yêu của mình. Vậy yêu người khác cũng là yêu chính anh. Tình yêu – theo L. Feuerbach – mới là giá trị tuyệt đối, nơi bí mật cuộc sống được tiết lộ, tình yêu là sự đam mê, tồn tại, thực tế. Nỗi đau của tình yêu là những cảm xúc chân thật nhất chứ không siêu hình trừu tượng như trong triết học cũ. Triết học mới, theo L. Feuerbach bắt nguồn từ Tôi – một thực thể có thực – tồn tại và có giác quan, có bản ngã và nhận thức về chính mình. Triết học mới không tách rời trí tuệ khỏi các giác quan để tìm ra siêu năng lực mà tinh thần và lý trí là những yếu tố của giác quan, thuộc tính của giác quan. Vấn đề khát vọng hạnh phúc được L. Feuerbach xem như phần tất yếu trong cuộc sống con người. Mỗi cá nhân đều có quyền sống hạnh phúc và hướng tới hạnh phúc. “Khát vọng hạnh phúc – đó là khát vọng của những khát vọng „Tôi muốn‟ có nghĩa là „tôi không muốn rơi vào bất hạnh, tôi muốn hạnh phúc‟” (L. Feuerbach, 2015: 38). Ý chí và “ý chí hướng đến hạnh phúc” ở Feuerbach đồng nghĩa với nhau. Khái niệm hạnh phúc được hiểu khá rộng, nhưng ý nghĩa, tính chất của nó chỉ có một – tính cá thể. Định nghĩa hạnh phúc như trạng thái mà ở đó “thực thể có thỏa mãn và thỏa mãn thực sự nhu cầu cá nhân đặc trưng của mình, liên quan đến bản chất và cuộc sống của mình” (L. Feuerbach, 2015: 49), ông nhận thấy có nhiều cách hiểu về khái niệm này vừa đa nghĩa, vừa có tính cá thể. Con người có thể muốn cái mà trong hiện thực không đem đến hạnh phúc như hệ quả của quan niệm xuyên tạc về hạnh phúc, cũng như hệ quả của quan niệm sai lầm về phương thức dẫn đến mục tiêu. “Chắc hẳn hạnh phúc mang tính chủ quan, như quá nhiều nhà đạo đức học biết và bàn đến, và quả nhiên nó là như thế. Hạnh phúc của tôi không tách khỏi cá thể tính của tôi” (L. Feuerbach, 2015: 52). NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 20 2.3.3. Quan tâm đến đời sống con người L. Feuerbach hoàn toàn không muốn xóa bỏ tôn giáo, bản thân triết học của ông cũng hòa vào tôn giáo. Theo L. Feuerbach, tôn giáo mà ông đề xuất là quan hệ yêu thương giữa người với người; mối quan hệ này, cho đến nay vẫn đi tìm chân lý của nó ở sự phản ánh huyền ảo của hiện thực - ở sự trung gian của một hay nhiều ông thần, tức là những hình ảnh huyền ảo của các thuộc tính con người – nhưng ngày nay đã tìm thấy chân lý ấy, một cách trực tiếp không cần có trung gian, trong tình yêu thương giữa “Tôi” và “Anh”. Vì thế mà theo L. Feuerbach tình yêu cuối cùng là tình yêu nam nữ là một trong những hình thức cao nhất của việc thực hành tôn giáo mới của ông. Xem xét Kitô giáo dựa trên những chất liệu thực tiễn và sự trải nghiệm cá nhân, thông qua biểu hiện cụ thể của tôn giáo tại Đức và Tây Âu trong thời kỳ đầy mâu thuẫn một cách phê phán, L. Feuerbach mong muốn thay Kitô giáo bằng tôn giáo không có Thượng đế, tôn giáo tình yêu vĩnh cửu. Tình yêu là quy luật phổ quát của lý tính và tự nhiên. Ông thừa nhận: “Triết học mới mang đến không gian của tôn giáo; nó mang bản chất của tôn giáo; trong thực tế, nó là tôn giáo” (L. Feuerbach, 2015: 77). Vì thế, nó cần phải là quy luật cao nhất và trước nhất của con người. Tình yêu là mối liên hệ, là bản nguyên kết nối giữa cái hoàn thiện và không hoàn thiện, giữa cái tội lỗi và cái vô tội, giữa cái phổ biến và cái cá thể, giữa luật lệ và con tim, giữa thần và người. Tình yêu tự nó là Thượng đế, bên ngoài tình yêu không có Thượng đế. Tình yêu làm cho con người trở thành Thượng đế và Thượng đế trở thành con người. Tình yêu là sự thống nhất chân chính Thượng đế và con người, tinh thần và tự nhiên. Với cách hiểu này, ông đem ý nghĩa tôn giáo gán cho cả quan hệ lứa đôi và hôn nhân. Trong Bản chất Kitô giáo (2012: 98) ông nói cụ thể về tình yêu bằng quan điểm: “ Tình yêu (của người đàn ông) dành cho phụ nữ là cơ sở của tình yêu phổ quát. Ai không yêu phụ nữ, kẻ đó không yêu con người” Như thế là, do chỗ tình yêu được tuyên bố như là bản chất chân chính của tôn giáo, chủ nghĩa vô thần của Feuerbach hiện ra ở đây với tính cách là tôn giáo chân chính, tôn giáo không hượng đế. Đồng thời, ông cũng nhận định, triết học mới không hòa tan vào nhân chủng học, vào lý trí, hay tình cảm mà nó là sự thật về cuộc sống của con người. Tức là những cái đang diễn ra trong đời sống con người, không trừu tượng, thần bí mà trần trụi như bản chất của họ. Ở một chỗ khác, ông nhận mạnh: “Nghệ thuật, tôn giáo, triết học và khoa học chỉ là sự biểu hiện sự tồn tại thật của con người. Con người là thật và con người hoàn hảo chỉ khi anh ta sở hữu óc thẩm mỹ hoặc nghệ thuật, tôn giáo hoặc phẩm hạnh, triết học hoặc khoa học giác quan là lòng nhân đạo” (L. Feuerbach, 2015: 76). Nền tảng của triết học mới, theo L. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 21 Feuerbach, cũng là bản chất triết học của con người, nó phù hợp với thực tế khách quan. 3. TẠM KẾT Mặc dù, thuyết hữu thần và Thiên Chúa giáo có những quan điểm khác nhau về Chúa, nhưng quan điểm chung họ vẫn thừa nhận sự tồn tại của Thượng đế - đối tượng có lý trí vượt lên trên con người và tồn tại bên ngoài sự tồn tại của con người. Không thừa nhận quan điểm đó của thuyết hữu thần cũng như Thiên Chúa giáo, L. Feuerbach phân biệt tôn giáo và thần học. Thần học, thuyết hữu thần, triết học duy tâm, đều là sự tư biện đối với tôn giáo, chúng chịu sự phê phán một cách ngẫu nhiên. Thượng đế là sự mặc khải bản chất bên trong của con người, sự thể hiện cái Tôi của con người. Bản chất của Thượng đế không có gì khác hơn là bản chất con người, khát vọng được thoát khỏi những giới hạn cá thể. Do đó, L. Feuerbach (2015: 35) nhấn mạnh: “Chúa là khách thể giống như bất cứ khách thể nào có giác quan; nhưng, tại thời điểm giống nhau, ngài cũng là chủ thể của chính nó, và, thay vào đó giống như chủ thể của con người. Chúa sáng tạo ra mọi sự vật rằng là một phần từ chính ngài, ngài quay trở lại chính mình trong chính mối quan hệ của mình và có liên quan đến những sự vật khác tồn tại một phần từ chính ngài; ngài có cả tình yêu và sự thưởng ngoạn xảy ra cùng lúc và với những cái khác” (L. Feuerbach, 2015: 13). Trên cơ sở kế thừa triết học của Hegel, L. Feuerbach cũng thừa nhận những đóng góp của Hegel cho triết học hiện đại, đồng thời, ông cũng chỉ ra rằng, Hegel “biến hoạt động chủ thể này thành chính hoạt động của thần thánh”. Hegel cho rằng, toàn bộ giới tự nhiên, thế giới vật chất chỉ là tồn tại khác của ý niệm, biến thể của tinh thần mà không có sự hiện diện của ý thức, và chỉ là sự chuẩn bị cho quá trình chuyển hóa của tự nhiên. Phê phán Hegel, L. Feuerbach chỉ ra rằng chính Hegel đã khôi phục và làm trung gian cho thần học thông qua sự phủ định của chủ nghĩa duy lý. Khẳng định triết học mới là triết học của con người, nền tảng của triết học phải bắt đầu từ con người và vì con người (nhân học), L. Feuerbach nhận định, triết học mới là những nguyên lý nhận thức, là chủ thể, không phải bản ngã, con người cá nhân mới là chủ thể của lý trí, là những con người có tư duy. L. Feuerbach mong muốn xây dựng là một xã hội có sự độc lập, tự do dành cho con người không bị “giam cầm” bởi nhà thờ Kitô giáo hay Thượng đế của chủ nghĩa duy tâm. Mặc dù có những tư tưởng cải cách triết học mang tính nhân văn, hướng đến giải phóng con người nhưng do những hạn chế của điều kiện lịch sử cũng như trong tư duy nên L. Feuerbach chỉ xem con người một cách trừu tượng, phi lịch sử, con người tự nhiên, sinh học mà chưa gắn với những điều kiện hiện thực của xã hội loài người, những quan hệ phức NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 22 tạp trong điều kiện đối kháng giai cấp nên L. Feuerbach vẫn chưa vượt qua được. Trong khi đó, C. Mác - bằng những nghiên cứu thực tiễn – đã chỉ ra rằng, con người khác rất nhiều với con vật, ngoài những bản năng tự nhiên, con người có ý thức, con người còn có cả hành động mà con vật không thể nào có là sản xuất vật chất: “Bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 2004: 66). Minh chứng cho nhận định của mình, C. Mác đã phân tích các hình thức sở hữu của loài người, nhờ có tái sản xuất mà con người trải qua nhiều loại hình sở hữu khác nhau trong lịch sử; từ “sở hữu bộ lạc” đến “sở hữu công xã và sở hữu nhà nước thời cổ” để đến “hình thức sở hữu thứ ba là sở hữu phong kiến” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 2004: 68, 69, 71). Trong quá trình chuyển từ hình thái sở hữu này sang hình thái sở hữu tiến bộ hơn, con người có ý thức về chính họ và về xã hội họ đang sống, họ ý thức được các mối quan hệ giữa mình và người khác, trong khi đó, loài vật không làm được việc này. Theo phân tích của C. Mác, con người một mặt có quan hệ với đời sống tự nhiên, một mặt họ “tự tạo ra chính họ”, đó là quan hệ xã hội – trong đó có tình yêu gia đình – điều mà trước đó, L. Feuerbach chưa nhìn thấy được hoặc chưa được nhắc tới. Để nghiên cứu con người, C. Mác nói: người ta không chỉ nghiên cứu mặt tự nhiên hay chỉ mặt xã hội mà là sự kết hợp cả hai. Điều này thì người Đức nói chung, L. Feuerbach nói riêng vẫn chưa làm được, vì “người Đức không những thiếu năng lực hiểu biết và thiếu tài liệu mà thiếu cả „sự xác thực của cảm giác‟” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 2004: 82), họ chỉ làm cách mạng bằng lý luận, chưa thâm nhập vào đời sống thực tiễn. L. Feuerbach muốn cải cách xã hội, nhưng ông chỉ nghiên cứu mặt tự nhiên của con người, làm mọi biện pháp để con người được tự do về mặt tinh thần như ông nói triết lý mới mang màu sắc “tôn giáo của tình yêu”. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Đinh Ngọc Thạch, Doãn Chính (đồng chủ biên). 2018. Lịch sử triết họ phương - Tập 1. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 2. L. Feuerbach. 2012. The Essence of Christianity. General Book LLC. Memphis. Printed in the USA. 3. L. Feuerbach. 2015. Principles of the Philosophy of the Future. New York: Prism Key Press. US. 4. C. á v h. nggh n o n ập. 2002. tập 3. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 5. C. Mác và Ph.Ăngghen. 2004. Hệ ư ưởng Đức (tái bản). Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
File đính kèm:
- tu_tuong_cai_cach_triet_hoc_cua_ludwig_feuerbach_trong_tac_p.pdf