Từ quan điểm về “Bá quyền Panduranga” nhìn lại bối cảnh miền Nam Champa trong thế kỷ VIII - IX
“Bá quyền Panduranga”(1) là thuật ngữ được Georges Maspero đưa ra, trong
công trình kinh điển về lịch sử Champa của mình, như là một tên gọi chính thức
của một chương sách thể hiện lịch sử của một thời kỳ mà mọi dữ liệu thu được về
Champa đều tập trung ở phương Nam, ám chỉ khu vực Khánh Hòa, Ninh Thuận,
Bình Thuận hiện nay (Maspero, 1928). Khái niệm trên của Maspero bắt nguồn từ
một giả định, rằng Champa là một thực thể chính trị thống nhất từ Bắc chí Nam,
rằng khi mà hầu hết các dữ kiện lịch sử đều tập trung về phương Nam (tức vùng
Kauthara và Panduranga) trong thế kỷ thứ VIII và IX. Trung tâm chính trị của
vương quốc Champa đã được thay thế bởi các thủ lĩnh phương Nam tựa như là một
cuộc dời đô trong những kịch bản quen thuộc được thấy trong lịch sử Trung Hoa
hay Đại Việt. Giả định trên được hình thành trên cơ sở ghép nối cơ học hai nguồn tư
liệu khác nhau là ghi chép của các sử gia Trung Quốc và các bia ký Champa, nhưng
trong suốt một thời gian dài, giả định này đã có một chỗ đứng vững chắc trong giới
học giả (Vương Khả Lâm, 1936; Coedes, 1944, 2011; Dohamine, Dorohime, 1965;
Lương Ninh, 2004; 2006), cho đến khi các nguồn sử liệu khác được bổ sung cung
cấp cho chúng ta những cái nhìn mới về Champa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ quan điểm về “Bá quyền Panduranga” nhìn lại bối cảnh miền Nam Champa trong thế kỷ VIII - IX
liot, Philippe Stern và Boisselier, Vickery cho rằng vị trí của Hoàn Vương ở quá xa về phía Bắc, trong khi cái “Bá quyền Panduranga” lại ở phía Nam và do đó không thể đồng nhất hai thực thể này, đồng thời Hoàn Vương cũng không hề đại diện cho toàn thể Champa (Vickery, 2005: 28-29). Trên thực tế, các bản ghi chép của người Trung Hoa, khi được xem xét thấu đáo, cho thấy thời bấy giờ có đến bốn thực thể khác biệt: Hoàn Vương/Huanwang (Quảng Nam), Môn Độc/Mendu (Bình Định, Phú Yên), Cổ Đất/Guda (Khánh Hòa), tương đương với Kauthara, Bôn Đà Lãng/Bentoulang Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (159) . 2020 19 (Ninh Thuận, Bình Thuận) trùng hợp với Panduranga (Griffiths và Southworth, 2007: 357-358; 2011: 288-290). Những dẫn luận trên cho thấy một diễn biến hết sức đa dạng của bối cảnh chính trị Champa đương thời, nhưng chúng chưa cho thấy các yếu tố về sự đồng nhất hay ít ra chỉ là dấu ấn mờ nhạt của sự liên kết các thực thể chính trị khác nhau trong vai trò cấu thành nên một Champa mang tính chất liên minh. Trong các bia ký, mà chúng ta đã đề cập đến ở trên, Prithivindravarvan (C24) và Indravarman (C25) được tán tụng là người “thừa hưởng” hay “cai trị” toàn bộ Champa, Harivarman thì tự xưng mình là “Lãnh chúa tối cao của Champa/Cri Campapura” (C31) (Maspero, 1928: 9). Diễn giải điều này, Vickery cho rằng, dù các thủ lĩnh phương Nam khẳng định họ cai trị toàn bộ Champa, nhưng ta không cần phải tin họ đã kiểm soát hữu hiệu toàn bộ Champa, mà chỉ nên xem họ coi khu vực của mình là một bộ phận của Champa (Vickery, 2005: 29-30). Trong một nghiên cứu trước đó, tôi đã chỉ ra rằng sự xuất hiện của danh xưng Champa và sự tiếp nối danh xưng này trên các bản khắc mang tính ngợi ca ở Kauthara và Panduranga không phải là ngẫu nhiên, chúng có chủ đích và ý nghĩa nhất định (Đổng Thành Danh, 2020: 3-6). Điều này thể hiện một cách rõ ràng rằng, các thủ lĩnh phương Nam đã chấp nhận và thừa hưởng một danh xưng (từ phương Bắc) để làm quốc hiệu chung, do đó vượt ngoài ý nghĩa của việc đặt tên, điều này đánh dấu cho sự xác lập ý thức về mối liên kết của các thực thể chính trị riêng biệt trong vùng để kiến tạo một liên minh đủ mạnh nhưng vẫn duy trì các trạng thái độc lập nhất định ở từng tiểu quốc. Giả thuyết trên của tôi còn được củng cố bởi một dữ kiện đắc giá, hầu như chưa được xem xét tỉ mỉ trước đó, được ghi nhận trong bia ký C31 (Nha Trang) là lời xưng tụng Harivarman: “Rajadhiraja/vua của các vị vua” (Majumdar, 1927: 62-63; Schweyer, 2005: 104), đây là danh hiệu quan trọng, lần đầu tiên xuất hiện trên các bản khắc Champa, thể hiện rõ sự khởi phát, dù chỉ là dấu hiệu manh nha, của một vương quyền tối cao mang tính liên minh, vượt ngoài quyền lực của một tiểu quốc mang tính địa phương. Bên cạnh đó, người ta cũng không hề thấy một bản khắc nào ở phía Bắc hay dấu hiệu nào về một công trình mang tính tôn giáo được xây dựng ở phía Bắc Champa thời điểm ấy. Điều này phản ánh thực tế, sự thống nhất và vươn lên của các thủ lĩnh phương Nam làm thay thế vai trò lãnh đạo Champa, làm mờ nhạt và áp đảo các thủ lĩnh phương Bắc (trên các bình diện tôn giáo, chính trị và quân sự). Họ không cần phải kiểm soát trực tiếp khu vực phương Bắc, vì những giới hạn về sức mạnh quân sự hay những chế tài của các thỏa ước liên minh, nhưng có tầm ảnh hưởng và duy trì một giải pháp chính trị hiệu quả để kiểm soát khu vực trong thế liên hiệp nhưng vẫn đảm bảo sự tự trị cần thiết ở từng chính thể riêng lẻ cấu thành vương quốc Champa lúc bấy giờ. Đó là một dấu mốc quan trọng trong việc hình thành vương quốc (liên 20 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (159) . 2020 hiệp) Champa, mà vai trò trung tâm thuộc về giới tinh hoa đang thống trị ở các tiểu quốc phương Nam, tiếc thay cho đến nay, các học giả vẫn chưa có những đánh giá đúng tầm với các hiện tượng, sự kiện và nhân vật lịch sử này. Ở một bối cảnh rộng lớn hơn, chính thể và nền văn minh (Nam) Champa thời kỳ này còn có những ảnh hưởng nhất định đến khu vực Đông Nam Á. Lần đầu tiên, người ta thấy lịch sử Champa ghi nhận những cuộc xung đột, tiếp xúc của Champa với những dân tộc, những đội quân xa lạ: trên biển có quân Java, trên bộ có Kambuja. Những khám phá về nghệ thuật và các phát hiện mới về quy mô khảo cổ, nội dung bia ký cho thấy vai trò quan trọng của hệ thống đền tháp Hòa Lai như một trung tâm tôn giáo của vùng, một biểu tượng kiến trúc, điêu khắc không chỉ của Champa mà còn có những mối liên hệ mật thiết với các kiến trúc ở Cambodia (Nguyễn Minh Khang, 2008: 73-77; Trần Kỳ Phương, 2015: 45-65). Những văn bia mới phát hiện của Khmer cũng ghi nhận nhiều mối giao thoa và ảnh hưởng của Satyavarman với các nền tảng tôn giáo quan trọng ở đế chế láng giềng (Griffiths, 2013: 72-76). 4. Kết luận Khi sự trỗi dậy của quyền lực phương Nam hiện hữu một cách toàn diện và rõ rệt nhất thì lịch sử bất ngờ sang trang và một lần nữa không hề được giải thích rõ ràng, như khi các bia ký đột ngột mất ở Mỹ Sơn để chuyển về phương Nam, lần này các bia ký lại chuyển về phương Bắc ở một vùng khác cũng thuộc Quảng Nam: Đồng Dương (Indravarman). Đối với chúng ta điều này một lần nữa tạo nên một khoảng trống về lịch sử, người ta không biết rằng vương quyền phương Nam, sau Vikrantavarman, được tiếp nối bởi ai? Người ta sẽ không biết tại sao một lần nữa quyền lực thống trị lại bị chuyển dời? Điều này đã làm hạn chế nhận thức lịch sử của chúng ta, như Maspero đã từng bị hạn chế, nhưng đó không phải là sự bế tắc hoàn toàn, một ngày nào đó, với những nguồn tư liệu mới, chúng ta sẽ phát triển nhận thức của mình về vấn đề này và ta sẽ trả lời được những câu hỏi đó một cách tường tận. Thậm chí biết đâu lúc ấy, những điều mà chúng ta tưởng chừng đã soi sáng, những quan điểm mà chúng ta tưởng chừng đã lý giải thấu đáo, những giả thuyết tưởng chừng đã có những cơ sở lý luận vững chắc sẽ lại một lần nữa bị đảo ngược hoàn toàn? Những điều duy nhất mà chúng ta có thể tạm rút ra, từ nghiên cứu này, trong bối cảnh dữ liệu hiện thời, là sự nổi lên về thế lực chính trị của các thủ lĩnh địa phương, ở các tiểu quốc Panduranga và Kauthara, từ góc độ quyền lực, trong tương quan so sánh với các tiểu quốc phương Bắc. Sự trỗi dậy đó, chỉ kéo dài trong hơn một thế kỷ, nhưng để lại những hệ quả quan trọng và lâu dài cho lịch sử: 1) Giúp định hình Champa như một vương quốc mang tính liên minh tập hợp nhiều tiểu quốc độc lập (với sự thừa nhận tên gọi Champa và tôn xưng mình là Raja di Raja); 2) Đưa Champa bước đầu vào “quỹ đạo” của những mối quan hệ chính trị khu vực; Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (159) . 2020 21 3) Kiến lập một nền văn minh về tôn giáo, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của cả Champa nói riêng và Đông Nam Á nói chung. Ngay cả khi, Kauthara và Panduranga đã mất đi vai trò trung tâm quyền lực của Champa di sản tinh thần của thời đại đó vẫn luôn được bảo tồn. Kauthara vẫn luôn là một trong hai trung tâm tôn giáo quan trọng của Champa, vẫn luôn được các vị vua sửa sang và phụng tế, cho đến tận thế kỷ thứ XIII, sánh ngang với Mỹ Sơn ở phía Bắc (Trần Kỳ Phương và Rie Nakamura, 2008). Dù ảnh hưởng các thủ lĩnh phương Nam không còn nổi bật nữa, nhưng trong các thế kỷ sau đó tinh thần “Bá quyền” vẫn còn hiện hữu như một ánh “hào quang” còn sót lại. Các thủ lĩnh địa phương, nhất là ở Panduranga, không ngừng chống đối sự áp đặt quyền lực từ các nhà lãnh đạo cai trị Champa từ Vijaya, các bia ký của những thế kỷ tiếp theo thường miêu tả cư dân Panduranga là các đám nổi loạn thường xuyên phản kháng đòi quyền tự chủ (Finot, 1903: 630-648; Schweyer, 2009: 24-27; Đổng Thành Danh, 2017: 52- 54). Cuối cùng, Kauthara và Panduraga chính là các thực thể tồn tại dai dẳng và bị sát nhập sau cùng trong bối cảnh thoái trào của vương quốc cổ Champa. Đ T D CHÚ THÍCH (1) Nguyên văn tiếng Pháp của thuật ngữ này là “L’Hégémonie de Panduranga” (Maspero, 1928: 95). Theo bản dịch tiếng Việt của Lê Tư Lành (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) từ “L’Hégémonie” có nghĩa là “Bá quyền”. Trong tiếng Anh, Vickery dịch từ này ra là Hegemony (Vickery, 2005: 27), Hà Hữu Nga dịch từ này ra tiếng Việt là “Bá chủ” (Vickery, 2012). Xét về ngữ cảnh cả hai thuật ngữ “Bá quyền” và “Bá chủ” đều có hàm nghĩa tương đương, nhưng gần đây bản dịch của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã được công bố thành sách xuất bản chính thức ở Việt Nam (Maspero, 2020), do đó tôi lựa chọn thuật ngữ “Bá quyền” để sử dụng trong suốt bài viết này. (2) Cả Maspero và Schweyer đều ghi nhận từ nội dung bia ký C24 rằng Indravarman là em của Satyavarman (Maspero, 1928: 100; Schweyer, 2009: 18), nhưng Lafont lại ghi nhận Indravarman là con của Satyavarman (Lafont, 2011: 146)? (3) Tôi đưa ra nhận định này vì nội dung tấm bia có ghi một niên đại Saka không rõ ràng bao gồm 3 con số và số mở đầu là số 7, còn hai số theo sau bị mờ (Majumdar, 1927: 65). (4) Tên gọi có thể được tạm dịch là “Tướng quân ở vùng Panran” (Phan Rang). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aymonier. E. (1891). Première étude sur les inscriptions tchames. Journal Asiatique, XVII (1), pp. 5-86. 2. Coedes. G. (1944). Les États hinduisés d’Indochine et d’Indonésie. Paris. De Boccard. 3. Coedes. G. (2011). Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông. Hà Nội: Thế giới. 4. Dohamide - Dorohiem. (1965). Dân tộc Chàm lược sử. Saigon. 5. Đổng Thành Danh. (2017). "Bia ký Patau Tablah (Đá nẻ) của Champa ở Ninh Thuận". Tạp chí Xưa và Nay. Số 482 (tháng 4), tr. 52-54. 22 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (159) . 2020 6. Đổng Thành Danh. (2020). "Quá trình hình thành, phát triển và liên kết của các tiểu quốc cổ ở miền Trung Việt Nam". Tạp chí Khoa học Xã hội miền Trung. Số 2 (64), tr. 3.7. 7. Finot. L. (1903). Notes d’épigraphie: V Panduranga. BEFEO. III, pp. 630-654. 8. Finot. L. (1915). Notes d’Épigraphie, XIV: Les incriptions du musée de Hanoi. BEFEO, 15, pp. 1-38. 9. Griffiths, A – Southworth, W.A. (2007). La Stèle d’installation de Sri Satyadesvara: une nouvelle inscription Sanskrite du Campa trouvée à Phước Thiện. Journal Asiatique, 295.2, pp. 349-381. 10. Griffiths. A - Southworth. W.A. (2011). La Stèle d’installation de Sri Adidevesvara: une nouvelle inscription de Satyavarman trouvée dans le temple de Hòa Lai et son importance pour l’histoire du Panduranga. Journal Asiatique, 299.1, pp. 285-286. 11. Griffiths. Arlo. (2013).The Problem of the Ancient Name Java and the Role of Satyavarman in Southeast Asian International Relations Araund the Turn of the Ninth Century. Paris: Archipel. 85. pp. 43-81. 12. Nguyễn Minh Khang. (2005). "Nhận thức mới về mô hình tổng thể của nhóm đền tháp Champa Hòa Lai". Tạp chí Di sản Văn hóa. Số 2 (23), tr. 73-77. 13. Nguyễn Minh Khang. (2012). "Trở lại vấn đề mô hình tổng thể của nhóm đền tháp Champa Hòa Lai ở Ninh Thuận". Tạp chí Di sản Văn hóa. Số 4 (41), tr. 73-76. 14. Lafont. P-B. (2011). Vương quốc Champa: địa dư - dân cư - lịch sử. IOC - Champa. San Jose. 15. Vương Khả Lâm. (1936). Chiêm Thành lược khảo. Hà Nội: Nhà sách Đông Tây. 16. Maspero. G. (1928). Le Royaume de Campa. Paris: G.Van Oest. 17. Maspero. G. (2020). Vương quốc Champa. Hà Nội: KHXH. 18. Majumdar. R. (1927). Acient Indian Colonies in Far East. Vol 1: Champa, Lahore (India). 19. Lương Ninh. (2004). Lịch sử Vương quốc Champa. Hà Nội: Đại học Quốc gia. 20. Lương Ninh. (2006). Vương quốc Champa. Hà Nội: Đại học Quốc gia. 21. Po Dharma. (1978). Chroniques du Panduranga. Paris: Thèse de L’EPHE. 22. Po Dharma. (1987). Le Panduranga 1822-1835. Ses rapports avec le Vietnam. Paris: EFEO. 23. Po Dharma. (2012). Vương quốc Champa: lịch sử 33 năm cuối cùng. IOC - Champa, San Jose. 24. Trần Kỳ Phương và Rie Nakamura. (2008). The My Son and Ponagar Nha Trang Sanctuaries: on the cosmological dualist cult of the Champa Kingdom in Central Vietnam as seen from Art and Anthrpology. Asia Research Institute. Singapore: Working Paper No100. 25. Trần Kỳ Phương. (2015). "Những văn minh có niên đại mới phát hiện và mối quan hệ của chúng với lịch sử nghệ thuật - tham chiếu nhóm tháp Hòa Lai và Po Dam". Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển. Số 5 (122). tr. 45-65. 26. Southworth. W. (2001). The Origins of Campā in Central Vietnam. Ph.D. thesis, Archaeology, SOAS, University of London. 27. Schweyer. A. W. (1999). Chronologie des inscriptions publiées du Campa. BEFEO. 86, pp. 321-344. 28. Schweyer. A. V. (2005). Ponagar de Nha Trang (seconde partie): Le dossier épigraphique. Aséanie. 15. pp. 87-119. 29. Schweyer. A. V. (2009). “The Royaumes du pays Cam dans la seconde moitié du XIe siècle”. Péninsule. No 59. pp. 17-48. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (159) . 2020 23 30. Vickery. Michael. (2005). Champa revised, Asia Research Institute. Singapore: Working Paper No 36. 31. Vickery M. (2012). Champa nhìn lại IV. (Hà Hữu Nga dịch). com/, truy cập ngày 5/12/2019. PHỤ LỤC Bảng phả hệ Vương triều Phương Nam Champa thế kỷ VIII - IX. TÓM TẮT Ý tưởng của bài viết này bắt nguồn từ quan điểm về một “Bá quyền Panduranga” được G. Maspero nêu ra như một tên gọi chung cho Vương quốc Champa trong các thế kỷ VIII và IX. Trong đó, mở đầu bài viết, tôi diễn giải và phân tích các quan điểm của Maspero, cũng như đánh giá lại những tranh luận sử học liên quan đến quan điểm này. Trung tâm và là mấu chốt của nghiên cứu, tôi nhận diện lại các nhân vật, các sự kiện liên quan đến lịch sử Champa trong giai đoạn ấy thông qua các dữ kiện được ghi nhận trong các bia ký ở Kauthara và Panduranga. Cuối cùng, nghiên cứu của tôi muốn chỉ ra các yếu tố đặc trưng cơ bản, nhận diện vai trò, ý nghĩa và di sản của thời đại này trong toàn bộ tiến trình của lịch sử và nền văn minh Champa. Những giả thuyết, luận điểm mà tôi nêu ra trong bài viết này đã được các học giả đưa ra trước đây, nhưng chưa hề có các lý giải thấu đáo cho các quan điểm này. ABSTRACT FROM THE OPINION FOR “HEGEMONY OF PANDURANGA” LOOKING BACK TO THE SOUTHERN CHAMPA CONTEXTE IN THE VIIIth AND IXth CENTURIES The idea of this article stems from the point of view of a “Hegemony Panduranga” given by G. Maspero as a common name for the Champa Kingdom in the VIIIth and IXth centuries. In it, at the beginning of the article, I interpret and analyze Maspero’s views, as well as reevaluate the his- torical arguments related it. Central content is the pivotal point to this research, I re-identified the characters and events related to the Champa history during that period through the data recorded in the inscriptions in Kauthara and Panduranga. Finally, my research wants to point out the basic characteristic elements, identifying the role, significance and heritage of this era in the whole pro- cess of Champa history and civilization. The hypotheses and arguments that I raise in this article have been given by scholars before, but have never had a thorough explanation for these views.
File đính kèm:
- tu_quan_diem_ve_ba_quyen_panduranga_nhin_lai_boi_canh_mien_n.pdf