Từ lý luận về giá trị hàng hóa sức lao động và tiền công của C. Mác bàn về chính sách cải cách tiền lương mới đối với người lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Lý luận về giá trị hàng hóa sức lao động và tiền công của C. Mác là nền tảng lý
luận quan trọng để Việt Nam kế thừa và vận dụng sáng tạo trong thực hiện cải cách
chính sách tiền lương mới hiện nay. Với vai trò đặc biệt quan trọng trong chính sách
kinh tế - xã hội, việc tiếp tục cải cách chính sách tiền lương nói chung, chính sách
tiền lương đối với người lao động trong doanh nghiệp nói riêng một cách khoa học,
minh bạch, phù hợp có ý nghĩa rất to lớn đối với người lao động và sự nghiệp đổi
mới đất nước đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Từ lý luận về giá trị hàng hóa sức lao động và tiền công của C. Mác bàn về chính sách cải cách tiền lương mới đối với người lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ lý luận về giá trị hàng hóa sức lao động và tiền công của C. Mác bàn về chính sách cải cách tiền lương mới đối với người lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
vực FDI “khoảng 10%, cao hơn doanh nghiệp dân doanh 20%, nhưng lương trả cho lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao chỉ bằng 50-60% so với doanh nghiệp FDI” [1, tr. 232]. Thực tế ở khu vực ngoài nhà nước, khu vực FDI, không ít người lao động luôn đứng trước sự chèn ép tiền lương tối thiểu xuống sát với mức lương tối thiểu theo quy định của nhà nước, chưa đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động. Việc phân phối tiền lương giữa người quản lý và người lao động, giữa lao động là người Việt Nam và lao động là người nước ngoài làm cùng công việc còn thiếu tính công khai, minh bạch, công bằng. Tiền lương chưa thực sự phản ánh đúng giá cả sức lao động, chưa thực sự gắn với mối quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường, tốc độ tăng tiền lương nhỏ hơn tốc độ tăng của năng suất lao động. Mức lương tối thiểu còn thấp, chưa theo kịp với yêu cầu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động và sự phát triển kinh tế – xã hội. Chung quy, dù đã trải qua bốn lần cải cách lớn cùng với nhiều lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng nhưng “tiền lương vẫn thấp, chưa đủ sống, chưa tạo động lực đủ mạnh, kích thích được người lao động phát huy tài năng, công hiến, tận tâm, tận lực với công việc, phục vụ nhân dân và doanh nghiệp” [1, tr. 175-176]. Do đó, việc tiếp tục thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người lao động trong doanh nghiệp là yêu cầu khách quan và cấp thiết trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. 2.2.2. Chính sách tiền lương mới và ý nghĩa của nó đối với người lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của chính sách tiền lương đối với người lao động cũng như phân tích, đánh giá về những hạn chế, bất cập trong chính sách tiền lương hiện hành, Đảng và Nhà nước ta quyết tâm “đẩy mạnh cải cách chế độ tiền lương, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng năng suất lao động và tăng tiền lương, lấy tăng năng suất lao động làm cơ sở để tăng tiền lương. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công,; hình thành cơ chế tiền lương theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động” [8, tr. 45-46]. Để đảm bảo ổn định xã hội, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới hiện nay, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/05/2018 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp. Đây được coi là nghị quyết chuyên về cải cách chính sách tiền lương, thể hiện sự kết tinh trí tuệ, trách nhiệm, quyết tâm, tầm nhìn của Ðảng khi xác định một cách sáng rõ về nội dung cải cách, lộ trình thực hiện, mục tiêu đạt được phù hợp với từng đối TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 20 - 2021 ISSN 2354-1482 37 tượng người lao động và gắn với tình hình thực tiễn của đất nước. Riêng đối với người lao động trong doanh nghiệp, những điểm nổi bật của chính sách cải cách tiền lương mới được thể hiện qua các phương diện sau: Về nội dung cải cách, Nhà nước tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện và công bố chính sách về tiền lương tối thiểu vùng theo tháng và theo giờ nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình người hưởng lương, nâng cao độ bao phủ của tiền lương tối thiểu và đáp ứng tính linh hoạt của thị trường lao động. Các doanh nghiệp được tự quyết định tiền lương và trả lương gắn với năng suất và kết quả lao động, nhưng không thấp hơn mức tối thiểu do Nhà nước quy định trên cơ sở thương lượng thỏa thuận ba bên: người sử dụng lao động – người lao động – tổ chức đại diện người lao động. Về lộ trình thực hiện, chính sách tiền lương mới đã được cân nhắc, tính toán, hoạch định thông qua những bước đi cụ thể. Từ năm 2018-2020, mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tăng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội, khả năng chỉ trả của doanh nghiệp để đến năm 2020 mức lương tối thiểu đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, nhà nước định kỳ điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp mà giao quyền tự quyết định cho doanh nghiệp. Chính sách cải cách tiền lương mới theo tinh thần Nghị quyết 27 là một trong những quyết sách lớn của đất nước, có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với người lao động mà còn đối với sự ổn định, phát triển của đất nước. Có thể khái quát qua các khía cạnh sau: Một là chính sách tiền lương mới nếu được thực thi đúng sẽ bảo đảm đời sống của người lao động và gia đình của người hưởng lương. Đối với người lao động, “tiền lương là nguồn thu nhập chính”, là cơ sở chính để bảo đảm các nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần thiết yếu nhằm sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Về mặt xã hội, tiền lương chính là chỉ số phản ánh chất lượng và mức sống của người lao động đồng thời là thước đo sự phát triển của xã hội. Theo đó, cùng với mỗi bước tiến của nền kinh tế là phải không ngừng nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động, cải thiện đời sống, mức sống, chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình của họ bằng việc điều chỉnh tăng lương thông qua quyết sách của Đảng và Nhà nước về cải cách chính sách tiền lương mới. Hai là chính sách tiền lương mới sẽ góp phần khuyến khích và tạo động lực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tiền lương với ý nghĩa là nguồn thu nhập chính, chỉ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực của người lao động khi được trả đúng và xứng đáng. Số lượng nguồn thu nhập ấy lại được xác định dựa trên cơ sở “năng suất và kết quả lao động”. Tiền lương theo chính sách cải cách mới được hoạch tính theo “nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương” TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 20 - 2021 ISSN 2354-1482 38 [1, tr. 240]. Là giá cả của sức lao động, khi tiền lương mà người công nhân nhận được xứng đáng với năng lực, chất lượng, hiệu quả của lao động thì đó chính là sự ghi nhận một cách rõ ràng nhất về giá trị và thành quả sức lao động, đánh giá đúng mức độ đóng góp và cống hiến của người lao động trong công việc, từ đó sẽ tác dụng thu hút, huy động mạnh mẽ sự tham gia của người lao động, kích thích người lao động không ngừng nâng cao đạo đức nghề nghiệp, sự trung thành tận tụy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc, tạo động lực nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc. Với ý nghĩa đó, “trả lương đúng là thực hiện đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực” [1, tr. 239]. Ba là chính sách tiền lương mới góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Với tính cạnh tranh quyết liệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, một trong những sức mạnh mềm giữ vai trò quyết định đối với sự ổn định và phát triển bền vững của một doanh nghiệp chính là tạo dựng được môi trường làm việc hài hòa, công bằng trên cơ sở kết nối những người lao động thành một khối đoàn kết thống nhất cùng thực hiện tốt mục tiêu, chiến lược mà doanh nghiệp đề ra. Sợi dây kết nối ấy có bền chặt hay không phụ thuộc không nhỏ vào việc giải quyết một cách hài hòa về lợi ích của người lao động, trong đó trực tiếp nhất là công tác tổ chức và phân phối tiền lương trong doanh nghiệp. Theo Nghị quyết 27, Nhà nước không còn can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp mà trao quyền tự quyết định cho doanh nghiệp trong việc xây dựng chế độ tiền lương, thang, bảng lương và các chế độ đãi ngộ gắn liền với chức danh công việc cụ thể, phù hợp với tổ chức sản xuất và tổ chức lao động của doanh nghiệp. Do đó, việc tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp khi đảm bảo đúng nguyên tắc công bằng và hợp lý sẽ “bảo đảm mối quan hệ hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp” [1, tr. 241], khuyến khích tính tích cực lao động bằng cả lòng nhiệt tình, hăng say, tự giác của mỗi người lao động và tập thể lao động, cùng đồng lòng chung tay xây dựng và phát triển doanh nghiệp vững mạnh. Ngược lại, một khi tính công bằng và hợp lý không được đề cao và coi trọng thì sẽ là nguyên nhân làm phát sinh những hiềm khích, mâu thuẫn nội bộ giữa người lao động với nhau, giữa những người lao động với người sử dụng lao động, đánh mất đi động lực làm việc và sự gắn bó của người lao động với doanh nghiệp. Tình trạng người lao động, đặc biệt là lực lượng lao động có trình độ cao bỏ việc, nhảy việc hay có xu hướng di chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang các công ty đầu tư nước ngoài đang diễn ra phổ biến, đã gióng lên hồi chuông cảnh báo hiện trạng chảy máu chất xám, lãng phí chất xám. Đây hiện là một trong những điểm nghẽn cản trở sự phát triển kinh tế hiện nay ở nước ta. Vì vậy, trả lương đúng cho người lao động theo quan điểm chỉ đạo của chính sách cải cách tiền lương mới sẽ là động lực trực tiếp huy động và phát huy vai trò nhân tố chủ quan của người lao động cùng hướng tới mục tiêu chung vì hiệu quả sản xuất, kinh doanh, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Bốn là chính sách tiền lương mới góp phần thực hiện tiến bộ và công TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 20 - 2021 ISSN 2354-1482 39 bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế và sự phát triển bền vững của quốc gia. Chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế – xã hội. Mỗi bước tiến trong quá trình cải cách chính sách tiền lương không chỉ hướng tới nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, giải quyết vấn đề an sinh – xã hội, sinh kế lâu dài cho nguồn lực lao động mà đó còn là thước đo trình độ phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, khẳng định bản chất nhân văn, tốt đẹp vì sự phát triển toàn diện của con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn đẩy mạnh đổi mới hiện nay, để khơi dậy và phát huy hiệu quả các nguồn lực quan trọng cho sự phát triển đất nước, Đảng ta xác định động lực hàng đầu cần phải nhận thức và xử lý tốt là “bảo đảm lợi ích, sự kết hợp hài hòa các lợi ích và phương thức thực hiện lợi ích công bằng, hợp lý cho mọi người, cho các chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế [9, tr. 222]. Đảm bảo lợi ích và giải quyết lợi ích một cách hài hòa, công bằng, hợp lý cho mọi người, cho các chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế, vừa là nguyên tắc vừa là mục tiêu hàng đầu trong hoạch định xây dựng các quyết sách kinh tế - xã hội, trong đó trực tiếp nhất là chính sách tiền lương. Với chính sách cải cách tiền lương mới hiện nay, từng bước “xây dựng hệ thống chính sách tiền lương một cách khoa học, minh bạch, phù hợp” [1, tr. 242] với phương châm “trả lương đúng” [1, tr. 239] theo nguyên tắc “phân phối theo lao động, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương” [1, tr. 240] sẽ bảo đảm và giải quyết hài hòa, công bằng hợp lý cho người lao động, tạo động lực giải phóng sức sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội, ổn định chính trị – xã hội và phát triển bền vững. 3. Kết luận Lý luận về giá trị hàng hóa sức lao động và tiền công của C. Mác vẫn còn nguyên giá trị, là nền tảng lý luận quan trọng để Việt Nam kế thừa, vận dụng sáng tạo trong xây dựng, hoạch định chính sách tiền lương những năm qua và tiếp tục thực hiện cải cách chính sách tiền lương mới hiện nay. Những quan điểm đột phá về mục tiêu, lộ trình, nội dung, giải pháp, nhiệm vụ trong chính sách tiền lương mới nói chung và tiền lương đối với người lao động trong doanh nghiệp nói riêng theo quan điểm chỉ đạo của Đại hội XII và các Hội nghị Trung ương, đặc biệt là Hội nghị trung ương lần thứ bảy với Nghị quyết 27 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong doanh nghiệp đã thể hiện cao độ trí tuệ, trách nhiệm, quyết tâm của Đảng. Một khi chính sách tiền lương mới được xây dựng, hoạch định và thực thi một cách khoa học, minh bạch, công khai sẽ tạo động lực quan trọng góp phần khơi dậy và huy động cao độ sức mạnh của nguồn lực con người vì sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 20 - 2021 ISSN 2354-1482 40 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2018), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 3. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 4. C. Mác và Ph. Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội 5. C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 6. Hội đồng biên soạn giáo trình môn Triết học Mác – Lênin (2019), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội 7. Chính phủ (2019), Nghị định 90/2019/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2019 “Quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động”, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Lao-dong-Tien-luong/Nghi-dinh-90- 2019-ND-CP-muc-luong-toi-thieu-vung-418807.aspx, (truy cập ngày 25/11/2020) 8. Văn phòng Trung ương Đảng (2017), “Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa II”, tr. 45-46 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội DISCUSSING THE NEW WAGE POLICY FOR WORKERS IN ENTERPRISES IN VIETNAM TODAY FROM THE KARL MARX’S THEORY OF VALUE OF THE LABOR – POWER COMMODITY AND WAGE ABSTRACT The Karl Marx’s theory of value of the labor - power commodity and wage is the important basis theory for Vietnam to inherit and apply creatively in the current salary reform implementation policy. With a particularly important role in the socio- economic policy, continuing to scientifically, transparently and suitably reform the wage policy in general, the wage policy for the employees in the enterprise in particular is of great significance to the employees and the country’s renewal process to meet development requirements of the current socialist-oriented market economy and international integration in our country. Keywords: Commodity, labor power, wages, wage policy (Received: 20/12/2020, Revised: 13/1/2021, Accepted for publication: 8/3/2021)
File đính kèm:
- tu_ly_luan_ve_gia_tri_hang_hoa_suc_lao_dong_va_tien_cong_cua.pdf