Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo

Về lĩnh vực kinh tế, tuy tôn giáo không trực tiếp sản

xuất làm ra của cải vật chất nhưng tôn giáo cũng gián tiếp đóng

góp công sức trong việc tạo lập một xã hội ấm no hạnh

phúc. Theo tác giả, triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo là

một ngành, một lĩnh vực khoa học nghiên cứu về sự chiêm

ngẫm, đúc rút thành những luận điểm cốt lõi nhất về vai trò của

tôn giáo đối với phát triển kinh tế của con người qua hoạt động

thực tiễn. Tuy nhiên, triết lý phát triển của kinh tế học tôn giáo

là một vấn đề rộng lớn, nên trong khuôn khổ của bài viết này,

tác giả chỉ tập trung trình bày ba nội dung: Kinh tế học tôn giáo

hướng tới phát triển một nền kinh tế nhân bản, nhân văn; Kinh

tế học tôn giáo phát triển một xã hội hài hòa; Kinh tế học tôn

giáo hướng tới phát triển một nền kinh tế bảo vệ môi trường bảo

đảm cho sự phát triển bền vững.

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 1

Trang 1

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 2

Trang 2

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 3

Trang 3

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 4

Trang 4

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 5

Trang 5

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 6

Trang 6

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 7

Trang 7

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 8

Trang 8

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 9

Trang 9

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 22 trang xuanhieu 2860
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo

Triết lý phát triển kinh tế học của tôn giáo
ừ 
trước, một mục tiêu mà con người quả thật có thể triển khai nhưng 
không được phép phản bội”. Khi hành động như thế “con người thay 
vì thi hành vai trò của người cộng tác với Chúa trong công trình sáng 
tạo, sẽ tự đặt mình thay thế Chúa và rốt cuộc làm cho thiên nhiên phải 
phản lại, vì con người đã hành hạ hơn là cai quản thiên nhiên”. 
Nếu con người can thiệp vào thiên nhiên mà không lạm dụng hay 
phá hoại thiên nhiên, thì có thể nói “con người đã can thiệp không 
phải để làm thay đổi cho bằng tạo điều kiện cho thiên nhiên phát triển 
theo sự sống riêng của mình, sự phát triển của thụ tạo mà Thiên Chúa 
đã nhắm tới”. 
Nguyễn Hồng Dương. Triết lý phát triển kinh tế 35 
Huấn quyền Kitô giáo xem việc khai thác thiên nhiên thể hiện tham 
vọng của con người muốn thống trị trên sự vật một cách vô điều kiện 
là việc khai thác “bệnh hoạn”. Huấn quyền nhấn mạnh tới trách nhiệm 
của con người trong việc bảo tồn một môi trường lành mạnh cho tất cả 
mọi người16. 
Còn quan điểm của Phật giáo thì sao? 
Một điều thú vị, không hẹn mà gặp, Đức Phật Thích Ca nhìn nhận 
thiên nhiên - môi trường tương tự như Huấn quyền Kitô giáo, đó là sự 
nhìn nhận chúng trong một chỉnh thể, trong mối quan hệ nội tại, gắn kết 
hoàn chỉnh, không tách rời giữa vạn vật sinh linh. Trong lý duyên sinh, 
Đức Phật chỉ rõ “cái này hiện hữu thì có cái kia hiện hữu, cái này không 
có thì cái kia không. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia 
diệt”. Từ lời dạy bao hàm đầy đủ khái niệm về sự vận động không ngừng 
của vũ trụ của Đức Phật, chúng ta không khó để nhận thấy vì chúng ta 
cũng là một thực thể của vũ trụ nên nếu ta gây tổn hại đến người khác, 
đến môi sinh thì không ai khác là chính chúng ta làm hại mình”17 
Phật giáo thực hành không sát sinh. Không sát sinh là giới đầu tiên 
của Thập thiện giới. Không sát sinh có nguồn gốc từ giáo lý Phật giáo 
về Thuyết luân hồi, nhân quả. Luân hồi là vòng sinh tử hoặc sinh tử, 
chỉ những đời sống nối tiếp nhau, trạng thái bị luân chuyển của một 
loài  Hữu tình khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ  Niết Bàn. 
Nguyên nhân trói buộc trong luân hồi là các phép  Bất thiện gồm có 
Ái  Sân - Si hay Vô minh  Nghiệp là động cơ tác động lên cơ chế 
của sự tái sinh. Trong Đại thừa, luân hồi được xem là thế giới của hiện 
tượng và thể tích của nó chính là thể tích của Niết Bàn. 
Cội nguồn của luân hồi từ đâu  Hữu tính có từ bao giờ những câu 
hỏi này đã được nhiều người nêu lên nhưng Phật tuyệt đối không trả lời 
những thắc mắc vô lối này, vì theo Ngài, chúng chẳng giúp ích gì trên 
con đường tu tập. Niết Bàn sự giải thoát khỏi luân hồi chỉ có thể thực 
hiện trong kiếp người: trong tất cả con đường tái sinh khác chúng sinh 
không thể đạt Bồ đề vì không có đủ khả năng nhận thức được yếu tố luân 
hồi do vô minh18. Vòng sinh tử của con người - luân hồi có 6 đường tái 
sinh (lục đạo), người ta phân biệt ba “thiện đạo” và ba “ác đạo”. Ba thiện 
đạo gồm có cõi người  Thiên và  Atula. Ba “ác đạo” gồm Ngạ quỷ, 
Địa ngục và Súc sinh. Súc sinh: sinh làm súc vật. Một trong lục đạo, một 
36 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 10 - 2017 
trong tam ác thú, một trong Thập giới. Sự tái sinh này do những hành vi 
sai trái đã tạo ra kiếp trước quá nặng chủ yếu là do tính ngu si. 
Như vậy trong kiếp luân hồi - sinh tử, con người có thể tái sinh làm 
súc vật. Việc sát sinh rất có thể đã giết những người thân của mình 
đang trong vòng luân hồi sinh tử. 
Sau này sát sinh của giáo lý Phật Đà được Phật tử mở rộng hơn, đó 
là việc sát hại muông thú dẫn đến sự diệt vong của muông thú làm mất 
cân bằng sinh thái. Cần lưu ý rằng muông thú được Mẹ Thiên nhiên 
tạo ra bởi một sự cân bằng liên hữu. Chúng nuôi sống nhau nhưng lại 
tựa vào nhau. Chẳng hạn, rắn bắt chuột - loại sinh vật phá hoại cây 
trồng mùa màng. Diệt hết rắn, chuột sẽ phát triển gây tác hại cho mùa 
màng là rất lớn. Ăn chay, tránh ăn thịt mỗi người dân - Phật tử sẽ 
đóng góp lớn cho biến đổi khí hậu. Bởi khi ngành chăn nuôi phát triển 
tới lợi nhuận tối đa sẽ tiêu thụ thức ăn và năng lượng nhiều hơn, trực 
tiếp cạnh tranh với sự khan hiếm đất, nước và tài nguyên thiên nhiên 
khác. Điều này có ý nghĩa sẽ căng thẳng hơn bao giờ hết trên các hệ 
sinh thái, phá rừng nhiều hơn và suy giảm đa dạng sinh học. 
Triết lý Phật giáo còn quan niệm sát sinh sẽ làm cho muông thú đau 
đớn và việc giết chúng là tàn nhẫn. 
Vào thời Đức Phật tại thế, để bảo vệ muông thú thậm chí cả sâu bọ, 
Đức Phật chọn mùa mưa - mùa hạ - 3 tháng để an cư. Mùa an cư là 
thời gian để các tỳ kheo sống hòa hợp tịnh trú, thăng tiến, tu học, hành 
trì tu tập. Chọn mùa hạ - mùa mưa là mùa cây cối phát triển đặc biệt là 
côn trùng, sâu bọ nảy nở nếu ra ngoài sẽ vô tình dẫn đạp chúng dẫn 
đến tội sát sinh. 
Có một triết lý Kinh tế học Phật giáo: “Bản thân kinh tế học Phật 
giáo là một mô hình tăng trưởng bền vững được chi phối bởi các 
nguyên tắc của Đức Phật, trong đó tập trung vào sự bình đẳng, công 
bằng xã hội và trao quyền”. Thay cho chính sách kinh tế chỉ chú trọng 
đến sự tăng trưởng thể hiện qua GDP (tổng sản phẩm trong nước) vốn 
được coi là một chỉ số phúc lợi, kinh tế học Phật giáo được áp dụng và 
định nghĩa bằng sự hạnh phúc và bền vững. Kinh tế học Phật giáo dựa 
trên con đường “Trung Đạo” (Middle Path) của Đức Phật chính là một 
mô hình tăng trưởng cân bằng giữa kinh tế và sinh thái, trong đó 
Nguyễn Hồng Dương. Triết lý phát triển kinh tế 37 
“Trung Đạo” là sự phát triển bền vững có tính khách quan. Trung Đạo 
đó có nói đến việc tránh sự xa hoa thái quá cũng như khổ hạnh thái 
quá. Sự khác biệt chính yếu giữa kinh tế học Phương Tây và kinh tế 
học Phật giáo là ở chỗ, kinh tế học Phương Tây hướng tới tối đa hóa 
lợi ích, trong khi kinh tế học Phật giáo hướng tới tối đa hóa sự thỏa 
mãn. Trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật dạy: “Bắt đầu từ những thứ nhỏ 
nhặt, của cải sẽ được tích lũy giống như ong mật thu gom phấn hoa từ 
những bông hoa, của cải tăng dần từng ngày cho đến khi không còn 
thiếu thốn”. Những người Phật tử nên tích lũy của cải cho các nhu cầu 
của mình giống như cách một con ong hút mật mà không làm hại đến 
bông hoa. Đây chính là hình ảnh của sự bảo vệ môi trường, phát triển 
bền vững. Đây chính là tư tưởng của Đức Phật trong Kinh Pháp cú 
(Dhammapada): “Giống như con ong, chỉ đến hút mật rồi bay đi mà 
không làm tổn hại đến hoa, mầu sắc cũng như hương thơm của hoa”. 
Tìm hiểu kinh tế học Phật giáo để tìm ra một giải pháp tốt hơn cho 
phát triển bền vững, không chỉ dành cho thế hệ hiện tại mà dành cho 
cả thế hệ tương lai. Và tìm được Trung đạo trong ba giai đoạn phát 
triển kinh tế: 1) Tạo dựng của cải; 2) Bảo tồn của cải; 3) Sử dụng của 
cải, tạo ra sự cân bằng, làm nền tảng cho phát triển bền vững19. 
Trong xã hội hiện tại và ngay cả khi con người bước vào kỷ nguyên 
của cuộc cách mạng khoa học lần thứ 4, tôn giáo vẫn có vai trò trong 
phát triển kinh tế. 
Trước hết kinh tế học tôn giáo hướng tới phát triển một nền kinh tế 
nhân bản, nhân văn. Nền kinh tế phải được đặt con người vào trọng 
tâm, tôn trọng con người quan tâm đến đời sống vật chất cũng như đời 
sống tinh thần của con người. Hoạt động kinh tế không lợi dụng, bóc lột 
những người khác. Hoạt động kinh tế phải tôn trọng, yêu thương, bảo 
vệ chúng sinh, đặt con người trong mối tương liên với môi sinh. Đạo 
đức của người dân - tín đồ không chỉ với tha nhân mà con người phải có 
đạo đức với đất đai, sinh thái, có tình yêu với đất đai, sinh thái, cây cỏ, 
chim muông. Với người Phật tử đó là làm theo lời dạy của Đức Phật: 
Nguyện mang tình thương đến muôn loài. 
Cầu mong hết thảy đều lợi lạc. 
Chia sẻ chan hòa không bỏ sót. 
38 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 10 - 2017 
Người ốm yếu và người khỏe mạnh. 
Loài cao to, hoặc ngắn, hoặc dài. 
Loài trung bình, bé nhỏ, tế, thô. 
Dù có tướng hay không hình tướng. 
Dù ở gần hoặc tận nơi xa. 
Vừa mới sinh hoặc đã sinh ra. 
Cũng nguyện cầu thảy đều an lạc”20. 
Kinh tế học Phật giáo phát triển một xã hội hài hòa, trước tiên đó là 
kinh tế của sự chia sẻ, kinh tế của của tinh thần vô ngã vị tha. Với 
người Kitô hữu “của cải hoàn thành chức năng phục vụ con người khi 
chúng được định hướng tới việc đem lại lợi ích cho người khác và cho 
xã hội”. Triết lý kinh tế học tôn giáo nhấn mạnh đến quan hệ hài hòa 
chủ thợ. Yêu cầu một công ty, một doanh nghiệp không chỉ là một tổ 
chức (hay cộng đồng) sản xuất, kinh doanh mà còn là một tổ chức 
(hay cộng đồng) xã hội, ở đó nhân vị con người được coi trọng. 
Kinh tế học tôn giáo hướng tới phát triển một nền kinh tế bảo vệ 
môi trường cho sự phát triển bền vững. Môi trường theo quan niệm 
của tôn giáo là toàn thể vũ trụ - thiên nhiên, kể cả ánh sáng và bóng 
tối. Với Kitô giáo, con người được Thiên Chúa đặt trong mối tương 
liên với thiên nhiên môi trường. Thiên nhiên - môi trường mà Thiên 
Chúa tạo dựng, Thiên Chúa trao ban cho con người gìn giữ. Con 
người được Thiên Chúa đặt trên chóp đỉnh của thiên nhiên - môi 
trường. Con người phải có trách nhiệm trước Thiên Chúa bảo vệ thiên 
nhiên - môi trường. Huấn quyền Công giáo quan niệm thiên nhiên - 
môi trường là một thể thống nhất, là một chuỗi mắt xích đã được sắp 
đặt, chúng có quan hệ hữu cơ, quan hệ nội tại. Một mắt xích bị đứt 
kéo theo thay đổi một trật tự - đã được Thiên Chúa sắp đặt sẵn. 
Quan niệm trên của Huấn quyền Công giáo về cơ bản tương hợp 
với quan niệm của Phật giáo với quan niệm Lý duyên sinh. Thiên 
nhiên là một thực thể của vũ trụ. Trong bảo vệ môi trường cho phát 
triển bền vững tư tưởng của Đức Phật trong Kinh Cú pháp thể hiện rõ 
điều này khi Đức Phật nói: “Giống như con ong chỉ đến hút mật rồi 
bay đi mà không làm tổn hại đến hoa, mầu sắc cũng như hương thơm 
của hoa”. Thật không có sự ví von nào hay hơn./. 
Nguyễn Hồng Dương. Triết lý phát triển kinh tế 39 
CHÚ THÍCH: 
1 Phạm Xuân Nam (2008), Triết lý phát triển ở Việt Nam - Mấy vấn đề cốt yếu, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 12. 
2 Theo tác giả bài viết: Có 5 nguyên tắc mà giáo lý Phật giáo cho là cần được đưa 
vào chính sách kinh tế của một nhà nước thực hành kinh tế học Phật giáo. Nhà 
nước đó không được công khai hoặc bí mật khuyến khích hay thực thi năm lĩnh 
vực hoặc loại hình hoạt động kinh tế sau đây: 
1) Sản xuất và bán vũ khí đạn dược (vũ khí); 
2) Sản xuất chất độc; 
3) Sản xuất phân phối và bán rượu và các loại thuốc nguy hiểm; 
4) Nuôi động vật để giết thịt; 
5) Buôn bán thịt động vật. 
3 Chandan Kumar (2014), “Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc: 
Phát triển bền vững cho thế hệ tương lai trong bối cảnh kinh tế học Phật giáo”, 
trong Phật giáo với các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc, Nxb. Đại học 
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: 117-118. 
4 Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Bác ái xã hội (2007), Tóm lược học 
thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 234. 
5 Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Bác ái xã hội (2007), Tóm lược học 
thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo, Sđd: 237. 
6 Công đồng Vatican II, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2016: 231. 
7 Xem: Phạm Thị Chuyền (2014), “Quan hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa Phật 
giáo và kinh tế”, Phật học Từ Quang, tập 7, tháng 1: 193-194. 
8 Max Weber (2010), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Bùi 
Văn Sơn Nam, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch, Nxb. Tri 
thức, Hà Nội: 26. 
9 Max Weber (2010), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Sđd: 
311, 312. 
10 Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Bác ái xã hội , Tóm lược học thuyết xã 
hội của Giáo hội Công giáo, Sđd: 240. 
11 Chandan Kumar, Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc: Phát triển 
bền vững cho thế hệ tương lai trong bối cảnh kinh tế học Phật giáo, Sđd: 116. 
12 Thượng tọa Thích Phước Đạt (2012), “Sự phát triển kinh tế nhìn từ triết lý Phật 
giáo” trong: Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Hội đồng Trị sự, Kỷ yếu Hội thảo kỷ 
niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981-2011), Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội: 387-389. 
13 Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Bác ái xã hội, Tóm lược học thuyết xã 
hội của Giáo hội Công giáo, Sđd: 235-236. 
14 Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Bác ái xã hội, Tóm lược học thuyết xã 
hội của Giáo hội Công giáo, Sđd: 235-236. 
15 Max Weber (2010), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Sđd: 
184-185. 
16 Viết về Kitô giáo với bảo vệ môi trường chúng tôi căn bản dựa vào chương 
mười: Bảo vệ môi trường trong cuốn: Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội 
Công giáo, Sđd: 312-335. 
17 TT. Thích Huệ Thông, Phật giáo với mục tiêu phát triển bền vững bảo vệ môi 
trường, trong: Phật giáo với các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc, Sđd: 360. 
40 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 10 - 2017 
18 Ban Biên dịch Đạo Uyển, Từ điển Phật học, Công ty sách Thời Đại và Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội, 2015: 336. 
19 Viết về nội dung Kinh tế học Phật giáo chúng tôi dựa vào bài viết của Chandan 
Kumar, Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc: Phát triển bền 
vững cho thế hệ tương lai trong bối cảnh kinh tế học Phật giáo, Sđd. 
20 Kinh Từ bi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hội đồng Giám mục Việt Nam - Ủy ban Bác ái xã hội (2007), Tóm lược học 
thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 
2. Công đồng Vatican II, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2016. 
3. Max Weber (2010), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Bùi 
Văn Sơn Nam, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch, Nxb. Tri 
thức, Tp. Hồ Chí Minh. 
4. Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Văn phòng Hội đồng Trị sự, Giáo hội Phật giáo 
Việt Nam từ đại hội đến đại hội, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2012. 
5. Phật giáo với các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc, Nxb. Đại học Quốc 
gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2014. 
6. Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Hội đồng Trị sự, Kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm 30 năm 
thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981-2011), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2012. 
7. Tùng thư Học viện Phật giáo Việt Nam 29, Phật giáo góp phần bảo vệ môi 
trường, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2014. 
8. Ban Biên dịch Đạo Uyển, Từ điển Phật học, Công ty sách Thời Đại và Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội, 2015. 
Abstract 
THE PHILOSOPHY OF ECONOMIC DEVELOPMENT OF 
RELIGIONS 
In the field of economy, religion does not directly produce material 
asset, however, it has indirectly contributed to creating a happy and 
prosperous society. According to the author, the philosophy of 
economic development of religions is a research field on 
contemplation, inference the most fundamental arguments of 
religion’s role in economic development through practical activity. 
However, the philosophy of economic development of religions is a 
large issue, so this article just focuses on three main contents: 
Religious economics is towards the development of a human 
economy; Religious economics develops a harmonious society; 
Religious economics aims to develop an economy that protects the 
environment for a sustainable development. 
Keywords: Economics, development, religion. 

File đính kèm:

  • pdftriet_ly_phat_trien_kinh_te_hoc_cua_ton_giao.pdf