Triết lý giáo dục hiện sinh và quan niệm “Thành nhân trước thành danh”
Thực tế cho thấy sự nhầm lẫn giữa triết lý giáo dục và định hướng giáo dục cục bộ
khá phổ biến. Từ việc phân biệt hai vấn đề này, chúng tôi xuất phát từ điểm nhìn của triết
lý giáo dục hiện sinh như một hệ quy chiếu để cứu xét triết lý giáo dục “thành nhân trước
thành danh”. Không chỉ dừng lại ở việc phác họa các vấn đề cơ bản của triết lý giáo dục
hiện sinh, bài viết còn trình bày các phương thức khả dụng cho thực tiễn đào tạo nói
chung. Ngoài ra, bài viết còn đề cập đến các vấn đề như chương trình đào tạo, phương
pháp giảng dạy và vai trò của người học. Chung quy, mục tiêu đặt ra là có thể gợi mở
thêm một vài vấn đề cần lưu ý trong bối cảnh giáo dục và đào tạo hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết lý giáo dục hiện sinh và quan niệm “Thành nhân trước thành danh”
việc tìm kiếm cái tôi của chính mình. Người học được mang lại nhiều phương thức và môn học khác nhau để lựa chọn. Tất nhiên, giới hạn cho phạm vi lựa chọn ấy được đặt trong định hướng chuẩn đầu ra đáp ứng với thực tiễn xã hội. Sự tự quyết trở thành mình của người học ở đây là tự do lựa chọn trong chiều hướng hình thành trên mối tương quan giữa nhu cầu thực tiễn xã hội và định hướng phát triển về lâu dài của đất nước trong bối cảnh khu vực và quốc tế. Người học có quyền tác động ngược trở lại chương trình đào tạo. Người học được khuyến khích tìm hiểu các giá trị nhân bản và từ đó kích thích sự sáng tạo nhắm đến các giá trị tốt đẹp cho xã hội. Sự tự do sáng tạo của họ phải có ích cho xã hội, nghĩa là vừa để phát huy toàn vẹn năng lực, hoàn thiện bản chất người học vừa đóng góp cho xã hội. Theo đó, nhà trường nên khuyến khích tham gia các lĩnh vực âm nhạc, kịch nghệ, những môn biểu diễn sáng tạo, văn chương và triết học. Trong đó, văn chương và triết học có ý nghĩa quan trọng trong việc hình TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 122 thành định hướng nhân văn cho người học. Văn học và triết học cần là môn học mà mỗi người học đều được học. Văn học, chính xác hơn, là các giá trị nhân văn, nhân bản trong tác phẩm và sinh hoạt văn học. Triết học, cụ thể hơn, là mang lại cơ hội được trải nghiệm và thấu cảm về chính cuộc hiện sinh về chính sự tồn tại của người học. Xưa nay, văn chương dần đi vào sáo mòn. Triết học dần đi vào thủ tục, xơ cứng, khô đét. Hơn bất cứ môn học nào, văn chương và triết học có ý nghĩa định hướng nhưng cũng chính hai môn học này đã bị xao nhãng và chính bản chất của chúng cũng bị bóp méo và đánh mất ý nghĩa cơ bản, khiến cho chúng không còn phát huy vai trò của nó trong chương trình đào tạo. Chương trình giáo dục hướng đến giáo dục nghề nghiệp, nghĩa là định hướng giáo dục ứng dụng. Nhưng định hướng nghề nghiệp ở đây không có nghĩa đơn thuần chỉ là đào tạo kỹ năng. Mà hơn thế, định hướng giáo dục định hướng ứng dụng phải là cơ hội để người học nhận thức rõ khả năng tiềm tàng và xây dựng ở họ niềm đam me yêu thích nghề nghiệp. Thế nên, định hướng giáo dục ứng dụng phải là sự khơi dòng lý tưởng về nghề nghiệp với điềm đam mê và ấp ủ tốt đẹp cho tương lai. Xa hơn, ứng dụng phải là khả năng ứng dụng suốt đời, phải hình thành nội lực cho sự ứng dụng đó, nghĩa là người học phải có khả năng tiến xa trên con đường sự nghiệp, không phải ứng dụng kiểu “mì ăn liền”, hoặc kiểu ứng dụng chạy theo nhu cầu cục bộ của xã hội. Ứng dụng lâu dài, ứng dụng có triển vọng mở ra và kéo dài theo sự phát triển xuyên suốt của xã hội. Muốn có được khả năng ứng dụng đó, chương trình đào tạo phải dựa trên nền tảng khoa học cơ bản. Ứng dụng không đơn thuần là đào tạo những con người có khả năng làm được việc ngày mà phải là những con người có khả năng nghiên cứu chuyên sâu, nhận thức sâu sắc về bản chất công việc họ đang làm. Không chỉ dừng lại ở những con người có kỹ năng nghề nghiệp mà hơn thế phải là những con người có nhận thức sâu sắc về nghệ nghiệp. Lúc đó, họ mới có thể đi dài hơi trên đường đời, chứ không phải chỉ là một cỗ máy làm theo yêu cầu rập khuôn của xã hội. Chuyên sâu (cơ bản) + đam mê + sáng tạo + kỹ năng = ứng dụng. Giáo dục nghĩa là sự chuẩn bị cho cả quãng đường đời, là sự khởi đầu của đam mê. 4.2. Phương pháp giảng dạy Như đã nói, chương trình đào tạo phải là kế hoạch tương tác. Do đó về phương pháp, cách thức đối thoại Socratic khá phù hợp với các nhà hiện sinh giáo dục. Đó là cách tiếp cận giữ vững mối quan hệ You – I, nghĩa là bảo đảm tính tự do và dân chủ cho hoạt động giảng dạy. Người dạy không nói những gì phải lẽ và dẫn dắt cho người học tin những điều mình truyền giảng là đúng đắn. Thay vào đó, người dạy chỉ sử dụng các phương pháp để người học tự bộc lộ con người mình (Gotak, 2011). Có thể nói, dân chủ là nền tảng cơ bản trong mối liên hệ tương tác giữa người học và người dạy. Bởi đó là chất xúc tác và tạo điều kiện cho tự do lựa chọn, tự do hiện hữu của người học. Trong giờ giảng dù sử dụng phương pháp gì, người giảng dạy cũng cần tôn trọng tính dân chủ. Người dạy không áp đặt mục đích cá nhân của anh ta cho người học và nhiệm vụ của anh ấy là hướng dẫn sinh viên/ học sinh (Mozaffari và Jahanian, 2016). Điều này không đồng nghĩa với việc người thầy bị VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 123 triệt tiêu vai trò trong lớp học. Người lại vị thế của người thầy càng quan trọng hơn. Bởi sự dân chủ chỉ được tôn trọn và có ý nghĩa khi người dạy tiếp xúc tiệm cận với căn tính của người học. Nghĩa là tương tác ở cự li gần, cụ thể là tương tác ở khía cạnh tâm hồn của người học. Chính ở đó, dấu ấn của người thầy mãi mãi in hằn trên bước đường hiện hữu của người học. Nghĩa thầy trò hay đạo lý tôn sư trọng đạo của người Việt cơ hồ là khởi đi từ đó. Hơn nữa, khi tập trung vào tính cá nhân, riêng biệt hay nói khác đi là cá tính hiện hữu của người học, sự phát hiện các khía cạnh này có thể giúp người dạy nắm bắt được nguyện vọng và chiều hướng bản chất của người học. Từ đó có thể áp dụng cách tiếp cận phù hợp cho đối tượng. Bên cạnh đó, việc giảng dạy phải được triển khai trên quan điểm: người dạy là bạn đồng hành, người thiết thân mà kẻ học có thể mạnh dạn chia sẻ và thể hiện những gì thực chất trong nhân tính của họ. Lớp học nghĩa là nơi mọi thứ bày ra một cách chân thực, không phải là nơi thầy – trò vẽ vời và nói “cho vừa lòng nhau”. Đôi khi lớp học có thể là những trận tranh luận triệt để, quyết liệt mà người dạy không nhất thiết phải là người chiến thắng. Đó là sự thành công từ những thiếu sót của người dạy. Thế nên, điều này chỉ khả thi khi số lượng sinh viên trong lớp vừa đủ để người đứng lớp có khả năng bao quát và dẫn dắt sâu sát hơn. Tuy nhiên hiện nay, chúng ta vẫn chưa làm được điều này. Số lượng người học quá đông, tình trạng nhồi nhét vẫn diễn ra phổ biến ở hâu như mọi bậc học. Nhưng việc tổ chức một lớp học chuyên sâu về hiện hữu như thể hoàn thể khả dĩ. Song song với sự gia tăng số lượng người học thì chất lượng đào tạo và những điểm nổi bật trong quá trình đào tạo trở thành ưu thế cạnh tranh mà bất cứ một đơn vị đào tào nào cũng cần phải lưu tâm. Vấn đề là cả nền giáo dục phải thực hiện đồng bộ theo một nguyên lý xuyên suốt trong một quãng thời gian nhất định. Dưới cấp độ vi mô, quá trình tương tác giữa người dạy và kẻ học cần chú ý thêm việc phác họa các hình mẫu. Nhưng người dạy không đóng khung vào các lý tưởng chungchung mà cần hướng người học vào việc tự thiết lập cho họ hình tượng của chính họ. Nghĩa là thông qua các hình tượng gặp phải trong chương trình giáo dục để kích hoạt hình tượng tiềm ẩn trong lòng người học mà họ muốn trở thành hoặc có xu hướng trở thành. Do đó, yêu cầu đặt ra là chất lượng của người dạy. Điều này chỉ khả thi khi người dạy được đảm bảo quyền lợi và được tạo điều kiện nâng cao trình độ. Bởi quá trình đào tạo là một “kỳ công” của hiện hữu. Bởi sản phẩm của đào tạo là lập thành: Nhân tâm – Nhân tính – Nhân chủ – Nhân quyền – Nhân văn – Nhân bản. 4.3. Những nhận thức thiết yếu của người học Như đã nói, công việc của người dạy theo triết lý hiện sinh không phải truyền giảng những gì họ nghĩ, ngược lại anh ta hay chị ta chỉ bày ra các nẻo đường khác nhau và không làm gì hơn. Vì bước tiếp theo là của người học. Việc cung cấp lối đi cho phép sinh viên khám phá giá trị riêng của họ. Hẳn nhiên, lúc chưa đi chưa dấn thân nghĩa là chưa xác lập được hệ thống quan niệm nhân sinh, tự ngã, ý nghĩa và thẫm mỹ quan, nhưng tất cả các sự thể đó chỉ phát lộ khi người học trực diện bước đi trên con đường với sự lựa chọn và trực diện đối đầu với cuộc hiện sinh. Để làm TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 124 được điều này, người học cần phải nhận thức được càng nhiều lựa chọn càng tốt – hay những cơ hội (sự nhận thức về cơ hội xảy đến trong đời là chìa khóa đón bắt vận hội cần phải có ở mỗi con người thời đại bây giờ); họ cần cảm thấy được trao quyền và tự do để xác định các giá trị và bản sắc riêng của họ; và họ cần nhiều kinh nghiệm để nâng cao nhận thức của bản thân. Trách nhiệm chính của người dạy là cung cấp tất cả những điều này, và duy trì một môi trường học tập sao cho người học cảm thấy được khuyến khích thể hiện bản thân thông qua thảo luận, các dự án sáng tạo và lựa chọn các lĩnh vực học tập. Thế thì trong cuộc diện này, điều lưu ý hơn hết dành cho người học chính là sự lắng nghe quan sát. Kèm theo đó là họ phải ý thức một cách rõ ràng rằng chính họ chứ không phải ai khác phải chịu trách nhiệm cho tất cả những cái gì xảy đến. Đây là vấn đề khá đơn giản nhưng thường bị lơ là khiến cho quá trình đào tạo xảy ra những trục trặc trong mối quan hệ dân chủ - tự do giữa dạy và học. Bởi nếu thiếu sự nhận thức về việc chịu trách nhiệm, người học sẽ rơi vào tình trạng chối bỏ trách nhiệm. Nói khác đi, người học trốn chạy khỏi cuộc diện đời sống của chính họ. Đó là sự thất bại hoàn toàn. Do đó, ý thức về sự tự chịu trách nhiệm phải là cái mà cả người dạy và người học cần quán triệt ngay từ đầu. Đến đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh vai trò của người học trong mối quan hệ tương tác hiện sinh suốt quá trình đào tạo. Và rằng mục tiêu lớn nhất của cả quá trình đào tọa là việc xác định giá trị và bản sắc riêng của họ. Tất nhiên, giáo dục hiện sinh thừa nhận vai trò của cả văn hóa xã hội và bản chất cá nhân trong việc hình thành bản sắc cho người học. Thế nên, các sinh viên hiện sinh cần duy trì một cuộc đối thoại giữa các giá trị bản thân và bối cảnh văn hóa mà họ tồn hữu. Tuy nhiên, cuộc đối thoại quan trọng nhất và thiết yếu hơn cả là sự dối thoại với chính mình. Kant gọi là ý thức phản tư, hay những nhà hiện sinh gọi là ưu tư. Nếu không ưu tư về chính mình thì sẽ không định vị được mình trong cuộc diện hiện sinh. Đó là sự thất bại bản chất. Học kỳ thực là để tìm lấy chính mình, không hơn. 5. Kết luận Sau cùng, chúng tôi muốn nhắc lại lời cổ nhân: “Phiền trí vấn trí. Tử viết: “Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị trí hỷ”. Vấn nhân. Viết: “Nhân giả tiên nan chi hậu hoạch, khả vị nhân hỷ” Người nhân phải làm những việc khó khăn để sửa mình, giúp đời, mà cho việc gặt hái kết quả là việc sau. Vậy nên, ông Phạm Trọng Yêm đời Tống (960 – 1276) đã nói: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” 先天下之憂而憂,後天下 之樂而樂 Thiết tưởng người nào làm được như thế mới thật là người nhân” (Lê Phục Thiện dịch, 1962). Cho nên, nói nhân trước là sửa mình cho toàn đức, nhân đi liền với trí cũng như các phạm trù đạo đức khác để kiến tựu một con người hoàn thiện theo ý nghĩa đầy đủ nhất của nó. Nhưng như thế cũng chưa hẳn là nhân, nhân mà thành tựu thì phải nói đến danh, nghĩa là nhân phải đi đến danh thì mới là nhân trọn vẹn. Bởi “nhân giả tiên nan”, trải qua sự đời gian nan nguy khó, từ chỗ đó sửa mình, hay nói khác đi là nhận thức được chính nhân vị/ nhân hình/ nhân dạng/ nhân tính/ nhân tâm/ nhân văn/ nhân bản của chính mình, rồi tự thiết lập hệ giá trị sống và mục đích sống. VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 125 Dựa trên đó, người phải hành động, tự dấn thân, người hoàn toàn tự do/ tự quyết/ tự chủ và tự chịu trách nhiệm về cuộc đời mình. Đến đây, nhân mới là nhân của điều kiện cần. Để nhân là nhân của điều kiện đủ, phải vươn đến danh hay “hậu hoạch”, nghĩa là xác lập được vị thế, chỗ đứng và khoảng nhân sinh tồn hữu với sức ảnh hưởng của bản thân trong mối tương quan với tha nhân trong xã hội. Với chủ trương như thế, triết lý giáo dục hiện sinh đề xuất nâng cao các môn học mang tính kích thích “nhận thức” của người học để đánh thức nhân vị của họ (mà trong đó, triết học và các môn học thuộc lĩnh vực văn học nghệ thuật cần được chú trọng và trả lại đúng bản chất vai trò của nó). Đó là các môn học góp phần xây dựng hệ giá trị của tự ngã. Cần phần biệt rằng, hiện nay có nhiều môn học góp phần định hướng giá trị sống cho người học. Tuy nhiên, các môn học ấy không chỉ không thức tỉnh được ý thức về hệ giá trị bản ngã độc đáo và mang dấu hiện hữu của kẻ tại thế mà ngược lại còn đẩy người học rơi vào các giá trị đám đông. Rốt cuộc, người học chỉ là kiểu tồn hữu đám đông, hệ giá trị mà họ cho là giá trị sống, kỳ thực là giá trị sống của đám đông chung chung. Và như thế nghĩa là người học vẫn chưa thức tỉnh về chính họ. Thế nên, việc nhìn nhận lại và đề cao vai trò của những môn học định hướng tồn hữu và kích thích người học tự xây dựng hệ giá trị tự ngã là cực kỳ quan trọng. Chung quy, các cơ sở đào tạo cần hài hòa giữa hội nhập và truyền thống, xây dựng chương trình với phương pháp đào tạo theo quan điểm triết lý giáo dục hiện sinh, đồng thời với các định hướng giáo dục hạn định ở phạm vi hẹp trong sự kết nối với truyền thống văn hóa dân tộc. Cụ thể là hiện sinh thuyết giáo dục trong mối tương quan lồng ghép vào tư tưởng cốt lõi Việt Nho mà Kim Định đã có lần đề đặt trong bộ sách Triết lý an vi. Quả thực, vấn đề này đáng để các xã hội chú tâm xây dựng và hoàn thiện bởi giáo dục là động lực của phát triển. Vì “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia vậy”. Tài liệu tham khảo Bunnin, N. and Yu, J. (2004). The Blackwell Dictionary of Western Philosophy. UK: Blackwell Publishing, pp. 236-237. Trần Thái Đỉnh (1967). Triết học hiện sinh (khảo luận). Sài Gòn, Thời Mới xuất bản. Gotak, J. (2011). Philosophical Schools and educational ideas. Trans. M. Pakseresht. Samt Publications, p.180. Chu Hy (-).大学 . Phạm Ngọc Khuê dịch (1970). Đại học. Sài Gòn, Bộ Giáo dục xuất bản, tr. 14. Chu Hy (-).論語. Lê Phục Thiện dịch (1962). Luận ngữ. Sài Gòn, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, tr. 209-221. Jaspers, K. (1923). Die Idee der Universität. Hà Vũ Trọng và Mai Sơn dịch (2013). Ý niệm đại học. Hà Nội, Nxb Hồng Đức, tr. 34-58. Phùng Hữu Lan (-). 中國哲學史 I. Lê Anh Minh dịch (2013). Lịch sử triết học Trung Quốc (Tập 1 Thời đại Tử học). Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, tr.110-120. Malik, G. M. and Akhter, R. (2013). Existentialism and Classroom Practice. Journal of Humanities and Social Science, 8 (6), p. 88. Moore, T. W. (1982). Philosophy of education: An introduction. London, Boston, Melbourne and Henley: Routledge and Kegan Paul, p.10. Mozaffari, M. and Jahanian, R. (2016). Identifying Existentialist Philosophy of Education, International Academic Journal of Social Sciences, 3 (8), pp. 18- 28. Mộng Bồi Nguyên (-). Tạ Phú Chinh và Nguyễn Văn Đức dịch (1998). Hệ thống phạm trù lý học triết học phương Đông. Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, tr. 937-938.
File đính kèm:
- triet_ly_giao_duc_hien_sinh_va_quan_niem_thanh_nhan_truoc_th.pdf