Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey

John Dewey là một trong những người sáng lập tâm lí học chức năng và phát triển

triết học thực dụng. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tinh thần nước Mĩ

suốt thế kỉ XX, đặc biệt trên lĩnh vực giáo dục. Bài viết này giới thiệu khái quát về cuộc

đời và sự nghiệp của John Dewey với đóng góp nổi bật nhất của ông trong lĩnh vực giáo

dục, đó là triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng.

Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey trang 1

Trang 1

Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey trang 2

Trang 2

Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey trang 3

Trang 3

Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey trang 4

Trang 4

Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey trang 5

Trang 5

Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey trang 6

Trang 6

Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 3760
Bạn đang xem tài liệu "Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey

Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey
a J.Dewey
2.3.1. Triết lí giáo dục là gì?
Trong tác phẩm “Dân chủ và giáo dục”, J. Dewey đã đưa ra định nghĩa về triết lí giáo dục.
Theo ông, triết lí giáo dục là sự thể hiện rõ nhất mối quan hệ mật thiết giữa triết học và giáo dục:
“Nếu chúng ta sẵn sàng quan niệm giáo dục như là quá trình đào tạo ra các xu hướng căn bản, xu
hướng tinh thần và xu hướng tình cảm. . . thì triết học có thể được định nghĩa như là lí luận chung
của giáo dục” [1; 386], “Giáo dục là phòng thí nghiệm ở đó sự độc đáo của triết học trở nên cụ
thể và được chứng minh” [1; 388] Trên cơ sở phê phán ba triết lí giáo dục điển hình trong lịch sử:
triết lí giáo dục của Rousseau quá chú trọng cá nhân còn triết lí giáo dục Platon quá chú trọng tới
xã hội trong đó cá nhân sinh hoạt, triết lí giáo dục duy tâm thế kỉ XIX thu hẹp khái niệm mục tiêu
xã hội, khiến cá nhân phải phụ thuộc vào thiết chế, J. Dewey quan niệm trí tuệ và sự hình thành
trí tuệ là một tiến trình chung, cá nhân chỉ là một khái niệm có ý nghĩa khi tham gia vào tiến trình
xã hội và trở thành một bộ phận không thể tách rời của xã hội, còn xã hội chỉ có vai trò hiện thực
hóa sự tồn tại của các cá nhân. Từ đó, ông cho rằng: “Triết lí giáo dục chỉ đơn giản là sự phát biểu
rõ ràng về các vấn đề của sự đào tạo các thói quen tinh thần và đạo đức đúng đắn trong mối liên
quan đến những trở ngại nằm trong đời sống xã hội đương thời. Vậy thì, có thể định nghĩa ‘triết lí’
một cách sâu sắc nhất như sau: triết lí là lí luận giáo dục xét trên các phương diện phổ biến nhất”
[1; 389]. Ông khẳng định rằng, việc tái kiến tạo hệ thống triết lí, nền giáo dục, lí tưởng xã hội và
các phương pháp phải song hành với nhau. Sự thay đổi triệt để trong đời sống xã hội xảy ra đồng
thời với tiến bộ khoa học, cách mạng công nghiệp và sự phát triển của nền dân chủ đòi hỏi phải có
sự cải cách nền giáo dục, trong đó việc có một hệ triết lí giáo dục đúng đắn là điều vô cùng quan
trọng. “Giáo dục không thể tồn tại đơn thuần như một giả thuyết về điều nó khao khát” mà phải là
quá trình đem lại sự đổi thay cần thiết theo định hướng của triết lí giáo dục. Ông kết luận: “Triết
lí là lí luận giáo dục xét như một thực tiễn được thực hiện một cách có chủ tâm” [1; 390]. Như
vậy, triết lí giáo dục là những tri thức có tính mở đường, là công cụ lí thuyết để triển khai toàn bộ
nền giáo dục về mục tiêu, đội ngũ giáo viên, nội dung, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp
giảng dạy. . . Điều này được ông phân tích khá sâu sắc, tỉ mỉ trong các công trình nghiên cứu, đặc
biệt là trong tác phẩm “Dân chủ và giáo dục”.
2.3.2. Dân chủ và thực dụng – tinh thần cốt lõi trong triết lí giáo dục của J.Dewey
Sự quan tâm tới giáo dục của J. Dewey bắt đầu từ khi ông nhận thấy mâu thuẫn sâu sắc
giữa nhà trường và xã hội. Trong khi nước Mĩ đang chứng kiến những đổi thay to lớn chưa từng
thấy trong đời sống xã hội cũng như đời sống tinh thần và văn hóa ứng xử của con người thì nhà
trường Mĩ vẫn đi theo truyền thống cũ kĩ, “tĩnh về nội dung, độc đoán về phương pháp”, người dạy
nhồi nhét, áp đặt còn người học thì ghi nhớ thụ động, máy móc. Giáo dục lảng tránh những yêu
cầu thực tiễn, không điều chỉnh theo những khám phá mới nhất về tâm lí trẻ em và nhu cầu của
một xã hội dân chủ đang thay đổi. Bằng tinh thần dân chủ, J. Dewey coi nhà trường và xã hội dân
chủ là hai thành tố nền tảng cần được xây dựng lại nhằm khuyến khích trí thông minh trải nghiệm
117
Nguyễn Thị Toan
(experimental intelligence). Theo ông, xã hội dân chủ là xã hội tạo cho mọi người quyền bình đẳng
và dễ dàng có cơ hội tiếp cận tri thức, phát triển khả năng, xã hội mà quyền lực nằm trong khuynh
hướng bên trong của nhân cách và hứng thú tự nguyện. Chỉ có giáo dục mới tạo ra quyền lực này
song nền giáo dục truyền thống lại không thực hiện được điều đó. Bởi vậy, phải cấp thiết cải cách
giáo dục mà việc trọng tâm là thay đổi triết lí giáo dục, thay đổi quan niệm về vị trí, chức năng,
mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục. Việc tìm kiếm một triết lí giáo dục mới có thể khắc
phục hạn chế này trở thành mối quan tâm chính của J. Dewey. Bằng phương pháp luận của triết
học thực dụng, J. Dewey đã xây dựng triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng làm linh hồn cho cuộc
cách tân giáo dục của nước Mĩ. Tinh thần dân chủ và thực dụng thể hiện toàn diện trong quan niệm
của J. Dewey về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục. . .
Về mục tiêu giáo dục: Theo J. Dewey, không có mục tiêu chung chung, tách khỏi bối cảnh
cụ thể. Mục tiêu phải được đặt ra dựa trên điều kiện vật chất của xã hội đương thời, được sắp xếp
theo trình tự và mang tính liên tục chứ không phải là một phép cộng những kết quả rời rạc. Mục
tiêu hợp lí phải xuất phát từ những mong muốn của các hình thái cộng đồng đang tồn tại, phải căn
cứ trên hoạt động và nhu cầu bên trong của cá nhân cụ thể và chuyển thành phương pháp hợp tác
với các hoạt động của người học. Mục tiêu giáo dục, theo quan niệm của J. Dewey là “sự phát triển
tự nhiên và hiệu quả xã hội” [1; 139]. Đó là quá trình tái kiến tạo liên tục xã hội, làm cho xã hội
ngày càng tốt đẹp hơn, dân chủ hơn. Hiệu quả xã hội là sự phát triển năng lực của con người, là
sự chủ động sử dụng năng lực cá nhân vào những việc làm mang ý nghĩa xã hội, là khả năng hiểu
biết, cảm thông, khả năng sáng tạo, cảm thụ nghệ thuật, giải trí. . . “Hiệu quả xã hội hoàn toàn
nghĩa là quá trình làm cho tư duy trở nên phù hợp về mặt xã hội, để cho nó tham gia thực sự vào
quá trình biến các kinh nghiệm trở thành có thể truyền đạt nhiều hơn nữa; tham gia vào quá trình
phá vỡ các rào cản của sự phân tầng xã hội khiến cho các cá nhân không tiếp thu được những mối
hứng thú của người khác” [1; 149]. Để đạt tới hiệu quả xã hội, giáo dục cần giúp cá nhân: 1. Hình
thành và rèn luyện năng lực nghề nghiệp; 2. Giáo dục tư cách công dân tốt; 3. Đào luyện văn hóa,
hiểu theo nghĩa sự phát triển trọn vẹn của nhân cách. Quá trình giáo dục là quá trình hoạt động
của con người trong một xã hội của những cá nhân tự do bằng lao động của mình đóng góp cho sự
khai phóng và làm phong phú cuộc sống xã hội. Giáo dục phải phát triển tư duy phản biện, sáng
tạo và có trách nhiệm, phát triển tối đa những tiềm năng cá nhân. Nói ngắn gọn, mục tiêu cao cả
nhất là nhà trường đào tạo được những công dân tự do cho một chế độ dân chủ.
Về nội dung giáo dục: J. Dewey nhấn mạnh, phải xem xét nội dung trên cả quan điểm của
người dạy và người học. Với người thầy, sự hiểu biết về nội dung phải vượt lên trên sự hiểu biết
hiện tại của người học. Tuy nhiên, người thầy trong quá trình giáo dục không nên quá bận tâm tới
bản thân nội dung mà nên quan tâm tới mối tương giao giữa nội dung với các nhu cầu và năng
khiếu của người học: “Vấn đề của dạy học là giữ cho kinh nghiệm của người học đi theo con đường
mà nhà chuyên môn đã trải qua. Vì thế, người thầy cần phải hiểu biết cả nội dung lẫn các nhu cầu
đặc trưng và các năng khiếu của người học” [1; 221]. Giáo dục nhấn mạnh vào hành động tự do
cá nhân, bởi vậy, mọi biện pháp giáo dục đều phải căn cứ vào kinh nghiệm cuộc sống và nhu cầu
phát triển của người học, cung cấp những điều kiện, tài liệu cần thiết cho người học tự do hoạt
động. Chương trình học phải tính đến việc làm cho các môn học phù hợp với cuộc sống hiện tại,
nhằm mục đích cải thiện đời sống, hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. Nội dung giáo dục phải phản
ánh sự phát triển của loài người. Vì thế nội dung phải mang tính tăng tiến. Tức là chương trình học
phải hiện đại lên cùng với sự phát triển của loài người. Tuy nhiên, nội dung giáo dục, dù phong
phú, hiện đại thế nào đi chăng nữa thì trước hết phải cốt ở ý nghĩa mà nó đem lại cho đời sống xã
hội hiện hữu. Xã hội càng phức tạp, nội dung kiến thức càng phong phú thì càng đòi hỏi người
dạy phải tránh bắt học sinh “sao chép lại nội dung dưới dạng phát biểu có sẵn” (231) mà phải định
hướng học sinh biết cách chọn lọc những kiến thức hữu dụng.
Về phương pháp giáo dục: Phê phán lối dạy học thiên về tích lũy, J. Dewey nhấn mạnh hiệu
118
Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng của John Dewey
quả vận dụng trí thông minh vào một hoạt động cụ thể. Đây là tư tưởng cốt lõi của giáo dục thực
dụng. Dạy và học theo quan điểm dân chủ là chia sẻ hoạt động giữa thầy và trò. Phải đánh thức
tư duy của người học, hình thành và phát triển kinh nghiệm, gắn với giá trị của cuộc sống. Dạy
và học không đơn thuần là quá trình trao truyền thông tin mà phải cung cấp cho người học hành
trang vào đời, phục vụ cuộc sống. Nhà trường dạy học sinh kĩ năng, tri thức, tư duy, gắn biết và
làm. Phải đặt giáo dục trong quan hệ mật thiết với đời sống, gắn lí thuyết với thực hành. Triết học
thực dụng là triết học đề cao sự hữu ích và tính hiệu quả. Vận dụng triết học thực dụng vào xây
dựng triết lí giáo dục, J. Dewey cho rằng, cần xây dựng một nền giáo dục gắn lí thuyết với thực
tiễn. Giáo dục không còn là quá trình truyền dạy tri thức hay khai sáng trí tuệ, “giáo dục chính là
bản thân cuộc sống” (Education is life itself). Vì giáo dục là bản thân cuộc sống nên nhà trường
không thể tách khỏi xã hội như một ốc đảo cô đơn mà phải gắn liền, hòa làm một với cuộc sống.
Trường học không phải là nơi để người lớn dạy cho trẻ em các bài học về kiến thức và đạo đức
mà là một hình thái của đời sống cộng đồng. Giáo dục là bản thân quá trình sống của trẻ em chứ
không phải là một sự chuẩn bị cho một cuộc sống tương lai mơ hồ nào đó. Tri thức không thể là
sự áp đặt từ bên ngoài, một chiều từ phía người dạy. Tri thức phải đạt được bằng sự chủ động, nỗ
lực vươn lên, tìm kiếm và chinh phục của người học. Phê phán cách dạy học truyền thống chỉ chú
trọng vào lí thuyết, J. Dewey cho rằng dạy học phải tạo môi trường cho người học tiếp xúc với một
vấn đề có thực, gắn với một thực tại xã hội, phải hữu dụng. Theo John Dewey, điều quan trọng
sống còn của giáo dục không phải là sự truyền dạy những sự kiện đã chết mà là những kiến thức
và kĩ năng đã hòa trộn làm một với đời sống. Ý tưởng cơ bản nhất của John Dewey về giáo dục
là: thay vì chỉ học thuộc lòng, cần phải chú trọng hơn nữa việc mở rộng tri thức và phát triển các
kĩ năng giải quyết vấn đề, tư duy phê phán. Các tiến trình dạy học được tổ chức hài hòa, tập trung
vào việc tạo ra những thói quen tư duy cho người học. Tư duy là phương pháp trải nghiệm mang
tính giáo dục (educative experience). Những phương diện cơ bản của phương pháp dạy học do đó
cũng đồng nhất với những phương diện cơ bản của phương pháp tư duy. Nhà trường có nhiệm vụ
chuẩn bị những điều kiện cho người học tự mình tạo dựng kiến thức cho chính mình bằng toàn
bộ các giác quan và tư duy của chúng. Trước hết người học cần phải có một tình huống đích thực
để trải nghiệm; tiếp đó, phải được đặt trước một vấn đề đích thực nảy sinh từ chính tình huống đó
như một sự kích thích cho tư duy; từ đó, có những thông tin cần thiết gợi ý cho người học các giải
pháp giải quyết vấn đề, những điều kiện áp dụng chúng sao cho đạt được hiệu quả cao nhất. Và
J. Dewey gọi đó là nền sư phạm thực dụng.
Vì giáo dục chính là cuộc sống nên J. Dewey cho rằng, không có một thứ giáo dục chung
cho tất cả mọi người. Giáo dục phải tôn trọng sự khác biệt của người học. Giáo dục là quá trình của
người học chứ không phải của người dạy. Người học phải là trung tâm. Phương pháp là phương
pháp của năng lực và hứng thú của người học - những cá nhân đang trưởng thành, chứ không phải
là phương pháp của người lớn đã trưởng thành. Người thầy không phải là một vị quan tòa nắm
quyền uy độc đoán mà cũng chỉ là một thành viên của lớp học, có vai trò định hướng cho người
học. Vì thế phương pháp sẽ không cản trở sự phát triển tự nhiên ở người học. “Trong nhà trường,
sự sốt ruột muốn có được tính thống nhất về phương pháp và việc muốn có ngay những kết quả bề
ngoài, là kẻ thù lớn nhất của tính cởi mở. Người thầy nào không cho phép và không khuyến khích
tính đa dạng trong giải quyết vấn đề thì người thầy đó đang “bịt mắt” học sinh, xét trên phương
diện trí tuệ - tức là giới hạn tầm nhìn của chúng vào một con đường mà trí óc của người thầy vừa
hay cho phép... Ép buộc và thúc ép thái quá đều có chung nguyên nhân, và gây ra hệ quả như nhau
cho hứng thú trí tuệ linh hoạt và đa dạng” [1; 213].
119
Nguyễn Thị Toan
3. Kết luận
Giáo dục chính là cuộc sống, nhà trường là một xã hội thu nhỏ, kiến thức là sự tích hợp
liên môn, người học là trung tâm, học tập là quá trình người học tự kiến tạo tri thức trên cơ sở
thực nghiệm khoa học và kinh nghiệm dưới sự giúp đỡ của người dạy, kết quả giáo dục là những
công dân có tri thức, kĩ năng sống, năng lực làm việc. Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng đó của
J. Dewey thực sự đã tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh vực giáo dục của nước Mĩ và châu Âu thế kỉ XX.
Bài học về việc tôn trọng, phát huy tính chủ động, tích cực của người học, tinh giản kiến thức, tích
hợp, gắn kết lí thuyết và thực hành, chú trọng tính hiệu quả của giáo dục. . . trong triết lí đó vẫn có
ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt đối với công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam
hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Quách Hoàng Công, Hà Lê Dũng, 2014, Triết lí giáo dục của John Dewey trong tác phẩm
“Kinh nghiệm và giáo dục”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học
Huế, 1(2), 118-126.
[2] John Dewey. Phạm Anh Tuấn dịch. 2008. Dân chủ và giáo dục: một dẫn nhập vào triết lí
giáo dục. Nxb Tri thức.
[3] John Dewey. Phạm Anh Tuấn dịch. 2012. John Dewey về giáo dục. Nxb Trẻ.
[4] John Dewey. Vũ Đức Anh dịch. 2013. Cách ta nghĩ. Nxb Tri thức.
[5] Phạm Minh Hạc. 2012. Triết lí giáo dục thế giới và Việt Nam. Nxb Giáo dục Việt Nam.
[6] Bùi Minh Hiền (chủ biên), Nguyễn Quốc Trị. 2013. Lịch sử giáo dục thế giới. Nxb Đại học
Sư phạm.
[7] Nguyễn Ái Học, 2014, Vận dung triết lí giáo dục của John Dewey vào việc dạy học môn Ngữ
văn trong bối cảnh đổi mới toàn diện giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa
học – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 59(2), Tr.25-33.
[8] Trần Kiệt Hùng, Phạm Thế Châu. 2007. Xã hội và nền văn hóa Mĩ. Nxb Văn hóa thông tin.
[9] Nhiều tác giả. 2004. Chân dung những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu trên thế giới. Nxb
Thế giới.
[10] Lê Văn Tùng. Triết lí giáo dục của John Dewey. Tạp chí Giáo dục số đặc biệt, 01/2011.
[11] Thái Duy Tuyên. 2012. Triết học giáo dục Việt Nam. Nxb Đại học Sư phạm.
[12] Nông Duy Trường. 2012. Chủ nghĩa thực dụng trong giáo dục - Phương thức tư duy toàn
diện - Học viện công dân.  icevn.org/vi/print/393.
ABSTRACT
The democratic and pragmatic philosophy on education of John Dewey
John Dewey was one of the founders of functional psychology and also the person who
developed pragmatic philosophy. His ideology profoundly influenced the spiritual life of the
United States during the twentieth century, particularly when it comes to education. This article
presents an overview of John Dewey’s life and career and his most prominent contribution to
education, which is the democratic and pragmatic philosophy on education.
Keywords: John Dewey, educational philosophy, democratic, pragmatic.
120

File đính kèm:

  • pdftriet_li_giao_duc_dan_chu_thuc_dung_cua_john_dewey.pdf