Triết học thẩm mỹ của Immanuel Kant và ý nghĩa giáo dục của nó trong xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay
Immanuel Kant là một trong những nhà tư tưởng lỗi lạc của triết học cổ điển
Đức nói riêng và hệ thống triết học nói chung. Ông không chỉ là nhà triết học lớn mà
còn là nhà mỹ học lớn của nhân loại với những cống hiến vô cùng quan trọng. Trong
lĩnh vực mỹ học, Kant được suy tôn là ông tổ của chủ nghĩa lãng mạn. Những tư
tưởng của ông không chỉ có giá trị nhân văn sâu sắc mà còn để lại nhiều ảnh hưởng
cho nhiều khuynh hướng nghệ thuật sau này, đặc biệt là khuynh hướng lãng mạn.
Bài viết góp phần nhận thức rõ hơn những nội dung cơ bản trong triết học thẩm mỹ
của Kant và chỉ ra vai trò to lớn của giáo dục thẩm mỹ trong đời sống xã hội, đặc
biệt là giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết học thẩm mỹ của Immanuel Kant và ý nghĩa giáo dục của nó trong xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay
ây xúc động mạnh mẽ do những biểu tượng kinh thiên động địa, làm ta như bị xuất thần (không phải là mê ly) trong nguy hiểm. Cái đẹp là cái làm ta vui sướng, thỏa mãn. Còn cái cao cả làm ta nghẹt thở, tạo nên khoái cảm rùng rợn. Ta trực tiếp say mê cái đẹp nhưng ta không trực tiếp say mê cảm giác của những cái cao cả đem lại. Phán đoán về cái đẹp ta cảm thấy một sự hòa điệu kỳ diệu giữa lý trí và trí tưởng tượng. Phán đoán về cái cao cả, ta cảm thấy sự bất đồng giữa lý trí và trí TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 44 tưởng tượng. Đứng trước cảnh núi non hùng vĩ, đúng trước cái thăm thẳm của cái vô cùng và uy lực khủng khiếp của các hiện tượng trong thiên nhiên, lý trí của ta tự nhiên hướng đến những ý niệm siêu việt: vô cùng, vô hạn, toàn năng, và trí tưởng tượng cảm thấy ngay sự bất lực của chính nó. Nó cảm thấy ngột vì những cái vô cùng. Nó đành chịu thua và kính phục. Cái cao cả là đối tượng của tình cảm kính phục và cảm mến này. Khi chiêm ngưỡng cái đẹp ta khoan khoái nhìn thẳng vào biểu tượng của nó. Ngắm nhìn cái cao cả ta cảm thấy rờn rợn, sức sống của ta bị đè nén và sau cái đè nén, ngột thở này ta cảm thấy sức sống trào dâng mãnh liệt. Cái đẹp giải thoát ta những ràng buộc của thú vui cảm giác giác quan để dẫn ta đến chỗ vui thỏa tinh thần. Cái cao cả cũng giải thoát ra khỏi sự sợ hãi do uy quyền mãnh liệt của thiên nhiên dẫn ta tới chỗ chiến thắng những nếm trải của ta đối với thế giới hữu hình. Kant chia cao cả thành hai loại: Cái cao cả toán học: những cảnh tượng uy hùng, hùng vĩ, vĩ đại, thể hiện tính chất, số lượng. Cái cao cả động lực: những lực lượng vĩ đại, hãi hùng của tự nhiên như sấm sét, núi lửa, thể hiện uy lực sinh động. So sánh cái cao cả và cái vĩ đại, Kant cho rằng: “ta gọi là cao cả những cái gì tuyệt đối vĩ đại” [4, tr. 77], “vĩ đại là quan niệm tuyệt đối, không thể dùng cái gì để đo lường hay so sánh được. Vĩ đại là cái chỉ mình nó so sánh với nó, còn cái cao cả là cái nếu so sánh với bất cứ cái gì cũng bị coi là nhỏ” [4, tr. 79]. Không có cái gì do kinh nghiệm giác quan của ta sánh được với cái mà ta cho là vĩ đại. Hơn nữa, trí tưởng tượng của ta cũng bị bất lực, cái cao cả không ở trong sự vật mà ở trong tâm hồn. Khi chiêm ngưỡng cái cao cả toán học ta cảm thấy sự bé nhỏ và cao cả của ta. Đứng trước chúng ta không thể phát họa cái gì vĩ đại hơn thế nhưng ta lại thấy vui thỏa như khám phá ra một cái gì của mình nằm sâu, ẩn kín trong tâm hồn ta: đó là “khả năng chiêm ngưỡng cái tuyệt đối vĩ đại”. Chỉ bản thân ta mới có ý tưởng về cái tuyệt đối và cái vĩ đại của thiên nhiên vẫn chưa là gì so với tâm trí ta. Đối với cái cao cả động lực, những lực lượng ghê gớm của tự nhiên ta cảm thấy con người bé mọn và mong manh nhưng ta vẫn đứng thẳng và vui thỏa nhìn vào sức tàn phá ghê gớm kia, vì chúng ta biết mình có quyền năng và cao cả hơn chúng. Cái cao cả toán học và cái cao cả động lực có chung một điểm: cảnh vật thiên nhiên chỉ mở đường, dẫn đường ta vào cái cao cả. Cả hai chỉ phát sinh trong tâm hồn của ta, chỉ có con người mới nhận thức được về cái cao cả vì chỉ con người vừa biết mình vừa yếu hèn vừa cao sang. Như vậy, những hiện tượng được coi là cao cả chỉ là cái cớ để chúng ta cảm thấy cái cao cả đích thực của tâm hồn, của tinh thần con người, cái tinh thần ấy ưu việt hơn hẳn so với tự nhiên. Triết học thẩm mỹ của Kant là sự đề xuất mới với những ý tưởng sâu sắc và độc đáo, là bước tiến rất quan trọng trong sự phát triển tư tưởng thẩm mỹ. Lý thuyết về thiên tài nghệ thuật mặc dù dựa trên cơ sở duy tâm chủ nghĩa nhưng về mặt nhận thức luận lại quan trọng ở chỗ nó bác bỏ xu hướng tĩnh quan đặc TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 45 tính của lý thuyết sao chép tự nhiên. Xu hướng chủ yếu trong phép phân tích cái đẹp thuần khiết là xu hướng hình thức, nhưng phép phân tích ấy đã vạch rõ chỗ khác nhau của chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm nói về tính tất yếu và tính phổ biến của phê phán thẩm mỹ – với xu hướng tương đối chủ nghĩa của cảm giác luận duy tâm chủ quan. Với lý thuyết về cái đẹp nương tựa – cái cao cả chứng tỏ trong chừng mực nào đó, Kant đã tiến sát tới quan niệm biện chứng và những phạm trù thẩm mỹ, những mối liên hệ lẫn nhau giữa những yếu tố khách quan và chủ quan trong những khái niệm thẩm mỹ. Tóm lại, triết học thẩm mỹ của Kant đã hướng tới con người với tư cách là một chủ thể từ tồn tại đến hoạt động. Kant đã tạo ra một cách nhìn mới, đánh giá mới về con người. Và ông cũng dự báo được hoạt động thực tiễn của con người là điều kiện tồn tại của xã hội. 2.3. Ý nghĩa giáo dục của triết học thẩm mỹ Kant đối với việc giáo dục thẩm mỹ trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay Những quan điểm cơ bản của Kant về cái đẹp, cái cao cả, về giáo dục thẩm mỹ có ý nghĩa không chỉ trong thời đại của ông mà còn nguyên giá trị trong thời đại hiện nay. Chúng ta tìm thấy trong triết học thẩm mỹ của ông nhiều giá trị cho việc đẩy mạnh giáo dục thẩm mỹ trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay. Xây dựng con người, tạo dựng nhân cách là chức năng cơ bản và cũng là mục tiêu cuối cùng của mọi nền văn hóa. Một trong những nhiệm vụ quan trọng phải thực hiện trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú cho toàn thể nhân dân lao động và xây dựng con người mới với những tiêu chí cơ bản sau: “Có ý thức làm chủ, có trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính” [5, tr. 20]. Ngày nay, chúng ta đang sống trong những thập niên đầu thế kỷ XXI – thế kỷ của “Sự phục hưng văn hóa vĩ đại”, như các nhà tương lai học dự đoán. Hành trang của con người Việt Nam phải là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức,”, nghĩa là một nhân cách phát triển toàn diện. Chính con người ấy, nhân cách ấy mới là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” [6, tr. 346]. Đại hội XI của Đảng đã xác định: “Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, đạo đức, trí tuệ, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ” [7, tr. 126]. Để nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ nhằm xây dựng con người mới, cần phải quan tâm đến việc làm phong phú tình cảm thẩm mỹ cho nhân dân lao động và các tàng lớp nhân dân khác. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu sự phong phú tinh thần của mỗi người, thiếu sự tham gia tích cực của nhân dân lao động – chủ thể sáng tạo nền văn hóa mới. Chính vì thế, việc xây dựng một TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 46 chiến lược giáo dục thẩm mỹ hướng tới toàn dân là một trong những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa và tư tưởng. Kế thừa quan điểm trên, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học” [8, tr. 126]. “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người” [8, tr. 127]. Tình cảm thẩm mỹ mới còn được xây dựng trên trên cơ sở tình cảm đạo đức mới, đó là đạo đức của giai cấp công nhân, quan hệ bình đẳng, đồng chí, anh em. Nguyên tắc của nó là: “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Đó là các tư tưởng đạo đức khoan dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm cho cái thiện thắng cái ác trong mỗi con người. Nhân dân ta có một truyền thống đạo đức lâu đời, đó là tinh thần yêu nước bất khuất, kiên cường, mưu trí, kiên quyết đấu tranh cho độc lập, tự do; đó là tình thương yêu giữa những người lao động; là đức tính cần cù, sáng tạo; tình cảm lạc quan, yêu đời. Từ ngày có Đảng, những giá trị đó được phát huy cao độ và không ngừng được bổ sung những nhân tố mới. Chúng là cơ sở của các tình cảm thẩm mỹ. Cái đẹp chân chính đều bắt nguồn từ lao động, từ chiến đấu, từ cái thật, cái tốt. Những tình cảm đối lập với hạnh phúc con người, những tình cảm tự tư tự lợi, ích kỷ hại người đều không đưa đến chỗ hình thành tình cảm thẩm mỹ mới, bởi nó không hướng vào cái đẹp của cuộc sống, không trở thành phương tiện giao cảm giữa người với người, không thể thôi thúc sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên, cũng như mọi tình cảm khác của con người, tình cảm thẩm mỹ không phải “nhất thành bất biến”. Nó là sản phẩm của thực tiễn lao động, chiến đấu và thường xuyên thúc đẩy thực tiễn ấy tiến lên. Trong cơ chế thị trường hôm nay, cái lợi đang tồn tại phổ biến trong mọi quan hệ của con người. Giáo dục thẩm mỹ cần thiết phải làm cho cái lợi dựa trên cơ sở cái đúng, cái đẹp, cái tốt. Đây là mục tiêu quan trọng của giáo dục thẩm mỹ của chúng ta hiện nay. Mỗi xã hội có mục đích giáo dục con người theo yêu cầu của mình. Mục đích của xã hội ta là chủ động tạo ra những cá nhân phát triển toàn diện và hài hòa tất cả các mặt thể chất lẫn tinh thần, đạo đức lẫn tài năng, làm cho mỗi con người dần dần trở thành vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử, nghĩa là con người được tự do và có đủ điều kiện để cống hiến và TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 47 hưởng thụ. Đó chính là chiến lược phát triển con người của Đảng ta: con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển của xã hội. Có nhiều hình thức giáo dục thẩm mỹ, mỗi hình thức giáo dục đều có hiệu quả khi nó vận dụng được phương pháp chung tương ứng với quá trình phát triển nhận thức của con người, đó là phương pháp thích hợp. Có thể kể đến các hình thức như: giáo dục thẩm mỹ qua lao động và hoạt động thực tiễn xã hội; qua các hình mẫu người tốt, việc tốt; giáo dục thẩm mỹ bằng môi trường; giáo dục thông qua học tập mỹ học và các bộ môn khoa học gần gữi; giáo dục thông qua nghệ thuật. Sự phát triển của triết học thẩm mỹ hướng vào mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người sẽ góp phần có hiệu quả vào việc phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế thị trường đối với nhân cách con người; bằng việc trau dồi nhạy cảm thẩm mỹ, tăng cường năng lực thẩm định trực giác, đánh thức các khả năng sáng tạo tiềm ẩn, thúc đẩy quá trình hình thành nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, xây dựng thị hiếu thẩm mỹ tích cực để biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Vì thế, tăng cường hơn nữa giáo dục thẩm mỹ là yêu cầu khách quan trong công cuộc đổi mới hiện nay nhằm “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học” [9, tr. 5]. Đó chính là những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức. Chính những con người ấy, nhân cách ấy là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. 3. Kết luận Trong mỗi thời đại, sự phát triển của mỗi quốc gia luôn gắn liền với dòng chảy của các nền văn hóa lớn trên thế giới. Với phương châm “hòa nhập nhưng không hòa tan”, Việt Nam luôn chú trọng tới việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Để làm được điều đó, mỗi cá nhân phải có lập trường vững vàng và nhận thức thẩm mỹ sâu sắc, không dễ dàng dao động bởi những trào lưu mới, tiêu cực. Vì vậy, những giá trị tư tưởng mỹ học mà Kant để lại là tài sản quý giá để chúng ta rèn luyện và tiếp thu trong quá trình hội nhập hiện nay. Sự hiện diện của triết học thẩm mỹ của Kant có ý nghĩa tích cực đối với việc giáo dục con người, đem lại cho họ niềm tin và sức mạnh, vào khả năng sáng tạo của chính con người, kích thích họ ở tính tích cực chủ quan, khơi dậy khát khao vươn tới những hành động cao thượng, đẹp đẽ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Immanuel Kant (2006), Phê phán năng lực phán đoán (Mỹ học và mục đích luận), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Nxb Tri thức, Hà Nội 2. Mác, Ăngghen tuyển tập (1984), tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội 3. Nguyễn Tiến Dũng (2009), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Văn nghệ, Hồ Chí Minh TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 18 - 2020 ISSN 2354-1482 48 4. Immanuel Kant (1898), Phê phán năng lực phán đoán, Nxb Xanhpetecbua, Nga 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thât, Hà Nội 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Báo Hà Nội mới, ngày 2-6-2014 IMMANUEL KANT’S AESTHETIC PHILOSOPHY AND EDUCATIONAL SIGNIFICANCE IN HUMAN CONSTRUCTION IN VIETNAM TODAY ABSTRACT Immanuel Kant was one of the great thinkers of German classical philosophy in particular and the philosophical system in general. He is not only a great philosopher but also a great aesthetic of humanity with his tremendous contributions. In the field of aesthetics, Kant is considered the father of romanticism. His thoughts were not only of profoundly humanistic values, but also influenced many later artistic trends, especially romantic tendencies. The article makes clear the fundamental content of Kant's aesthetic philosophy and shows the great role of aesthetic education in social life, especially in the current period in our country. Keywords: Immanuel Kant, aesthetic philosophy, education cosmetic, build personality (Received: 19/12/2017, Revised: 16/3/2018, Accepted for publication: 6/8/2020)
File đính kèm:
- triet_hoc_tham_my_cua_immanuel_kant_va_y_nghia_giao_duc_cua.pdf