Trần Đức Thảo và Karl Popper: Những khác biệt trong cách tiếp cận chủ nghĩa Mác
Bài viết phân tích những khác biệt trong nghiên cứu chủ nghĩa Mác của hai nhà triết học nổi
tiếng thế kỉ XX – Trần Đức Thảo và Karl Popper. Mặc dù có nhiều điểm tương đồng trong xuất thân
và sự nghiệp nhưng nếu như Trần Đức Thảo chuyển từ lập trường duy tâm sang lập trường duy vật
dưới sự ảnh hưởng của triết học Mác, trở thành nhà Mác-xít chân chính, kế thừa và phát triển chủ
nghĩa Mác thì Karl Popper lại rời bỏ chủ nghĩa Mác và trở thành người phê phán chủ nghĩa này
một cách cương quyết, bởi hai ông đã đứng trên hai lập trường khác nhau để tiếp cận chủ nghĩa
Mác. Nếu Trần Đức Thảo đến với chủ nghĩa Mác với tư cách là người dân yêu nước của một nước
thuộc địa nhằm tìm kiếm một hệ thống lí luận cách mạng giải phóng dân tộc thì K. Popper đã đứng
trên lập trường dân chủ cải lương của công dân một nước tư bản để phê phán học thuyết này. Tuy
nhiên, dù nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở góc độ nào thì cả Karl Popper và Trần Đức Thảo đều là
những nhà khoa học “tư duy không biết mệt”, say mê nghiên cứu với một tinh thần phản biện
chân chính.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Trần Đức Thảo và Karl Popper: Những khác biệt trong cách tiếp cận chủ nghĩa Mác
o và K. Popper lại tiếp cận chủ nghĩa Mác ở hai lập trường dường như là đối lập nhau. Nếu như Trần Đức Thảo trở thành một nhà Mác-xít chân chính, kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác trong những nghiên cứu của mình thì Karl Popper lại là một trong những người đi đầu trong việc phê phán chủ nghĩa Mác, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật lịch sử. Có sự đối lập này là bởi: Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 7 (2020): 1150-1160 1156 Trong nghiên cứu về lịch sử người ta không dung từ nếu, vì không thể nếu với cái đã qua, cái không thể trở lại, nhưng lịch sử không phải là cái phôi pha, vì nó là một phần của hiện tại, soi sáng cho hiện tại bởi chính những giá trị được rút ra từ những dữ liệu đã qua. Vấn đề là anh đứng ở đâu trong sự tiếp nhận đó và vì ai, vì cái gì. (Nguyen, 2016a, p.229) (i) Về phía Trần Đức Thảo Là một triết gia, Trần Đức Thảo tất nhiên tìm thấy những khả năng của chủ nghĩa duy vật biện chứng của K. Marx trong việc giải quyết nhiều vấn đề của thực tiễn lịch sử mà hiện tượng học dừng chân, bất lực. Ông bị hấp dẫn trước hết bởi nội dung khoa học và tính hệ thống của nó; thứ nữa, mới là hấp dẫn bởi tính chiến đấu, khả năng cải tạo thế giới của nó. Nhìn vào hồ sơ lí lịch và thư mục khoa học của ông, chúng ta có thể biết rằng cuốn Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng của ông được nung nấu, thai nghén ngay trong ba tháng nằm tù do lời tuyên bố “phải nổ súng” vào quân xâm lược Pháp. Phải chăng đây chính là thời kì mà tình cảm yêu nước trở thành động lực thúc đẩy cho trí tuệ đi đến nhanh hơn với chủ nghĩa Mác. Về sự nghiệp khoa học của mình, Trần Đức Thảo đã khẳng định: Hiện tượng luận của Huserl tôi đã giải quyết xong. Vấn đề bây giờ là phong phú hóa, chính xác hóa chủ nghĩa Mác và phát triển chủ nghĩa Mác, đúng theo tinh thần duy vật biện chứng. Tôi tập trung luận chứng khoa học về biện chứng của lịch sử loài người Đây là cuộc đấu tranh quyết liệt với mọi biểu hiện của phương pháp tư duy siêu hình, giáo điều và mọi luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác và tư tưởng triết học tiến bộ. Chỉ có như vậy mới hiểu được những giá trị bền vững của con người nói chung, mới phát triển được tính nhân văn của triết học Mác-xít để hiện thực hóa thành đời sống, thành sự sống của xã hội loài người. (Nguyen, 2016b, p.1195) Cũng phải nói thêm rằng, Trần Đức Thảo đến với chủ nghĩa Mác qua tài liệu tiếng Pháp và tiếng Đức, tức là đến với một hệ thống triết học trong trạng thái tinh khôi, nguyên chất của nó. Bởi vì rõ ràng là những nhà trước tác kiêm lãnh tụ cao nhất của hai đất nước “anh cả” trong phe xã hội chủ nghĩa anh em xưa là Stalin và Mao Trạch Đông đều trở thành đối tượng phê phán của Giáo sư Trần Đức Thảo. Trần Đức Thảo là người con của một dân tộc thuộc địa “Thấm thía nỗi đau của một dân tộc mất nước, nô lệ, với khát vọng dân chủ nên đã đi đến chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác để sáng tạo lí luận giải phóng dân tộc, giải phóng con người” (Nguyen, 2016b, p.1135) nhận thấy chủ nghĩa Mác là lí luận cách mạng, là con đường của độc lập tự do dân tộc. Từ thực tiễn của đất nước mình, ông ý thức sâu sắc rằng muốn giành được tự do dân chủ không có con đường nào khác là thông qua đấu tranh vũ trang. Nhận xét về điều này, Phan Ngọc nói: Trần Đức Thảo đến với chủ nghĩa duy vật sau khi trèo lên đỉnh cao nhất của chủ nghĩa duy tâm ở thời đại này là hiện tượng luận của Husserl rồi lật ngược nó lại. Từ duy tâm sang chủ nghĩa duy vật đó chính là sự phát triển biện chứng của chủ nghĩa duy tâm. Ông chuyển sang chủ nghĩa Mác là do tinh thần yêu nước. (Nguyen, Do, & Pham, 2008, p.17) Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Bùi Lan Hương 1157 Khi học tập tại Pháp, Trần Đức Thảo đã tích cực hoạt động cách mạng. Năm 1944, Trần Đức Thảo được cử làm báo cáo viên chính trị tại Đại hội kiều dân Đông Dương họp trong tòa thị chính Avignon, nơi có một người cộng sản làm thị trưởng. Trước Đại hội, ông đã trình bày một bản dự thảo cương lĩnh đòi thiết lập nền dân chủ ở Đông Dương. Thay mặt 25.000 kiều dân Đông Dương ở Pháp, Đại hội đã bầu Trần Đức Thảo làm ủy viên Ban Tổng đại diện kiều dân Đông Dương ở Pháp, phụ trách nghiên cứu các vấn đề chính trị. Đầu năm 1945, thay mặt Ban Tổng đại diện, triết gia đã cùng ông Lê Viết Hường gặp và làm việc với Maurice Thorezn – Tổng Bí thư Đảng cộng sản Pháp thời đó tại trụ sở Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Hai bên đã nhất trí về đường lối đấu tranh chung của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tất yếu phải đi đến chủ nghĩa cộng sản trong tình hình khách quan của thế giới. Cách mạng tháng Tám thành công ở Việt Nam càng khích lệ ông hăng say hoạt động xã hội. Ông viết truyền đơn và đăng nhiều bài báo ủng hộ Việt Minh và Chính phủ Hồ Chí Minh. Theo sự tường thuật của báo chí Paris, trong một cuộc họp báo, khi một nhà báo Pháp hỏi: “Những người Đông Dương sẽ làm gì khi quân đội viễn chinh đổ bộ?” Trần Đức Thảo đã trả lời ngắn gọn mà đanh thép: “Phải nổ súng!” Sau đó ông bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam vì tội “xâm phạm an ninh nước Pháp trong những lãnh thổ có chủ quyền của Pháp”. Trong ba tháng ở tù, Trần Đức Thảo đã nhận thấy rằng, trong hoàn cảnh khách quan mà ông đang sống nổi lên mâu thuẫn đối kháng gay gắt giữa dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa tư bản đế quốc, và những suy nghĩ ấy đã dẫn dắt ông đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Định hướng này sau đó đã được thể hiện trong tác phẩm Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp (năm 1946), Trần Đức Thảo đã may mắn được gặp Người. Ông xin được làm thư kí cho Hồ Chủ tịch và hứa với Người sau khi viết xong luận án tiến sĩ sẽ trở về nước tham gia cách mạng. Thực hiện lời hứa với Hồ Chủ tịch, cuối năm 1951 ông rời nước Pháp trở về Tổ quốc qua đường Luân Đôn - Praha - Mátxcơva - Bắc Kinh - Tân Trào. Như vậy, Trần Đức Thảo đã tiếp cận và nghiên cứu chủ nghĩa Mác không chỉ với tư cách là một nhà triết học mà còn với tư cách là một người cộng sản của một đất nước bị xâm lược. (ii) Về phía Karl Popper Khác với Trần Đức Thảo, dù luôn đấu tranh cho phong trào tự do dân chủ song Karl Popper là công dân của một nước chính quốc, một nhà nước tư bản, đứng trên lập trường dân chủ cải lương, ông muốn xây dựng xã hội lí tưởng bằng con đường hòa bình thông qua đối thoại và cải cách. K. Popper chưa hiểu đúng về chủ nghĩa Mác khi quy chủ nghĩa duy vật lịch sử về quyết định luận kinh tế và cho rằng những quan điểm của Mác về chủ nghĩa cộng sản là “không tưởng”. K. Popper nhận định không phải sản xuất vật chất mà chính sự phát triển của nhận thức nhân loại mới là yếu tố căn bản, quyết định sự phát triển của lịch sử. Mặc dù Popper Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 7 (2020): 1150-1160 1158 đánh giá rất cao quan niệm của K. Marx về con người gắn liền với ý thức của họ nhưng ông đã không thực sự hiểu được quan niệm về con người hiện thực của K. Marx khi tách rời thành tố tri thức của con người khỏi người lao động và quá trình sản xuất. Vì vậy, ông không thấy được tầm quan trọng của việc K. Marx và F. Engel chọn con người hiện thực làm xuất phát điểm xây dựng toàn bộ hệ thống lí luận của mình. Bản thân K. Marx cũng luôn đề cao vai trò của tri thức khoa học đối với sự vận động phát triển của lịch sử xã hội loài người, đặc biệt đối với hoạt động sản xuất vật chất. Nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử, K. Marx đã khẳng định tri thức khoa học đã chuyển hóa thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học được kết tinh, “vật hóa” vào người lao động, người quản lí, công cụ lao động và đối tượng lao động. Sự phát triển của khoa học đã kích thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người. Mặc dù, K. Popper đã thấy được vai trò tích cực, chủ động sáng tạo của ý thức con người nhưng ông đã không đi xa hơn để thấy rằng bản thân ý thức không thể tự tác động vào vật chất mà phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí có thể tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Trong các hình thức hoạt động thực tiễn, K. Marx đã chỉ rõ hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động quan trọng nhất. Chỉ khi quan niệm như vậy, chúng ta mới có thể thấy được hoạt động sản xuất vật chất như là những hoạt động bản chất, đầu tiên của con người, trong đó con người xuất hiện không chỉ đơn thuần là sức lao động mà còn là người lao động với toàn bộ đời sống của họ; sản phẩm của lao động không chỉ đơn thuần thỏa mãn nhu cầu sử dụng hay trao đổi mà còn là kết tinh sức lao động, trí tuệ, tình cảm, văn hóa của con người. Xuất phát điểm đúng đắn đó đã cho phép K. Marx và F. Engel có thể phát hiện ra mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, từ đó đi đến nhận thức quy luật phát triển của lịch sử qua các hình thái kinh tế – xã hội mà các ông gọi là quá trình lịch sử – tự nhiên. Khi phê phán chủ nghĩa duy vật lịch sử của K. Marx, có nhiều chỗ K. Popper đã đánh đồng cách tiếp cận duy vật biện chứng khoa học với chủ nghĩa duy tâm, siêu hình trong quan niệm về lịch sử. Do đó, K. Popper hình dung về xã hội cộng sản mà K. Marx vạch ra giống như xã hội đóng, khép kín không có tính mở. Nguyên nhân sâu xa là do ông đã đứng trên lập trường dân chủ tư sản để đánh giá chủ nghĩa Mác, xã hội mở mà K. Popper đề xuất thực chất chính là xã hội dân chủ tư sản. Một lí do nữa khiến Popper kịch liệt phê phán chủ nghĩa duy vật lịch sử của K. Marx bởi xuất phát điểm nghiên cứu của K. Popper là nguyên tắc thử sai. Theo K. Popper, chủ nghĩa Mác khi mới hình thành là khoa học, nó có thể được thực tiễn chứng minh là thật hay giả. Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười đã chứng minh chủ nghĩa Mác là giả, bởi vì chủ nghĩa Mác từng dự báo cách mạng xã hội chủ nghĩa phải thắng lợi ở các nước tư bản Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Bùi Lan Hương 1159 phát triển nhất; nhưng Cách mạng tháng Mười Nga lại thắng lợi ở một nước lạc hậu – khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản. Rõ ràng, K. Popper đã không thể hiểu đúng đắn rằng bản thân chủ nghĩa Mác là lí luận cách mạng không ngừng luôn được vận dụng, bổ sung và phát triển theo sự phát triển của thực tiễn. K. Popper đã không quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển trong việc phê phán quan niệm của K. Marx về chủ nghĩa tư bản, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và sự nghèo khổ cùng cực của giai cấp vô sản bằng việc chứng minh rằng ngày nay không còn chủ nghĩa tư bản như K. Marx mô tả và đời sống người công nhân đã được cải thiện. Bản thân K. Marx đã nhiều lần khẳng định chủ nghĩa tư bản vẫn luôn vận động và phát triển, K. Marx không thể nắm được tất cả các vấn đề của thời đại sau khi ông qua đời và có lẽ chính những nghiên cứu của K. Marx về chủ nghĩa tư bản đã ảnh hưởng tới sự vận động, biến đổi của bản thân hình thái kinh tế – xã hội này. Khi cho rằng đời sống của giai cấp công nhân tại các nước tư bản ngày càng được cải thiện, K. Popper đã không nhận thấy một thực tế rất rõ ràng là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, mặc dù đời sống của công nhân được cải thiện nhưng đó là sự phát triển chất lượng cuộc sống của toàn nhân loại, thêm vào đó tiền công thực tế luôn có xu hướng giảm do mức tăng của tiền lương danh nghĩa không cập với mức tăng của chi phí sinh hoạt của người công nhân. Hơn nữa, K. Popper chịu ảnh hưởng của nguyên lí bất định, nội dung của nguyên lí này về tính không dự đoán trước được của các hiện tượng trong thế giới đã ảnh hướng rất lớn tới quan niệm bất khả tri trong những nghiên cứu về lịch sử của K. Popper cũng như những phê phán gay gắt của ông đối với tính quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử. 3. Kết luận Những cách tiếp cận đa chiều của các nhà nghiên cứu đối với chủ nghĩa Mác là vấn đề rất cần được quan tâm. Nghiên cứu và làm rõ vấn đề này không chỉ giúp chúng ta thấy rõ hơn quá trình kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của chủ nghĩa Mác trong triết học Trần Đức Thảo, mà còn góp phần giúp chúng ta có cái nhìn đa chiều hơn đối với chủ nghĩa Mác từ tinh thần phản biện khoa học của Karl Popper. Sự khác biệt trong cách tiếp cận đối với chủ nghĩa Mác của Karl Popper và Trần Đức Thảo hoàn toàn có thể lí giải từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan nêu trên. Có thể nói, dù đứng trên lập trường khác nhau thì cả Karl Popper và Trần Đức Thảo đều là những nhà khoa học “tư duy không biết mệt”, say mê nghiên cứu với một tinh thần phản biện chân chính. Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM Tập 17, Số 7 (2020): 1150-1160 1160 TÀI LIỆU THAM KHẢO Ly, Q. T. (2005). Karl Raimund Popper (Quang Lam translated). East-West Cultural and Cultural Center: Thuan Hoa Publishing House. Nguyen, T. D. (2016). Giao trinh mot so van de ve con nguoi va van hoa cua triet hoc phuong Tay hien dai [Some issues of culture and people of modern Western philosophy textbook]. Hue University Publishing House. Nguyen, C. H., Do, M. H., & Pham, Q. T. (2008). Hien tuong hoc Huserl [Huserl Phenomenology]. Hanoi: Religion Publishing House. Nguyen, T. K. (2016). Triet gia Tran Duc Thao – Di cao, hoi uc, ki niem [Philosopher Tran Đuc Thao - Posthumous manuscript, Recollections, Memories]. Hue University Publishing House. Tran, D. T. (1984). Tran Duc Thao tu thuat tieu su [Tran Duc Thao’s autobiography]. Retrieved from: https://www.trieuxuan.info/Tran-Duc-Thao-tu-thuat-tieu-su/ TRAN DUC THAO AND KARL POPPER: DIFFERENT APPROACHES TO MARXISM Bui Lan Huong Hanoi Pedagogical University 2, Vietnam Corresponding author: Bui Lan Huong – Email: builanhuong.ussh@gmail.com Received: May 01, 2020; Revised: June 01, 2020; Accepted: July 20, 2020 ABSTRACT The paper analyses the differences in the study of Marxism by two famous 20th century philosophers: Tran Duc Thao and Karl Popper. Although there are a number of similarities in origin and career, Tran Duc Thao moving from the idealism to the materialism under the influence of Marxist philosophy became a true Marxist who inherited and developed Marxism while Karl Popper left Marxism and became a firm critic of this Maxism. It is because they approached Marxism with two different directions. If Tran Duc Thao came to Marxism as a patriot of a colonial country to search for a system of revolutionary reasoning for national liberation, K. Popper stood on the reformist democracy stance of a citizen of a capitalist country to criticize this theory. However, despite any aspect they chose to study Marxism, both Karl Popper and Tran Duc Thao are passionate, “unceaseless” thinkers with a true spirit of criticism. Keywords: Karl Popper; Tran Duc Thao; Marxism; differences
File đính kèm:
- tran_duc_thao_va_karl_popper_nhung_khac_biet_trong_cach_tiep.pdf