Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý

Chân lý là một khái niệm cơ bản của lý luận nhận thức. Cùng cặp với khái niệm chân lý

là khái niệm sai lầm. Chân lý là quan điểm (luận điểm, quan niệm, tư tưởng, ý kiến, phán đoán)

đúng đắn; còn sai lầm là quan điểm không đúng đắn. Theo lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy

tâm, chân lý có tính chủ quan, phụ thuộc vào chủ thể nhận thức. Trái ngược lại, theo lý luận nhận

thức của chủ nghĩa duy vật, chân lý có tính khách quan, không phụ thuộc vào chủ thể nhận thức.

Theo lý luận nhận thức siêu hình, chân lý đối lập tuyệt đối với sai lầm. Trái ngược lại, theo lý luận

nhận thức biện chứng, chân lý không đối lập tuyệt đối với sai lầm.

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý trang 1

Trang 1

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý trang 2

Trang 2

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý trang 3

Trang 3

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý trang 4

Trang 4

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý trang 5

Trang 5

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý trang 6

Trang 6

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý trang 7

Trang 7

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý trang 8

Trang 8

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 4160
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý

Tìm hiểu quan điểm biện chứng về chân lý
i, một quan điểm
nào đó nếu là chân lý thì không cần phải
làm cho đúng đắn hơn; một quan điểm nào
đó nếu là chân lý thì đó là chân lý tuyệt đối.
Người theo quan điểm biện chứng thì xem
xét mọi chân lý đều là quá trình; còn người
theo quan điểm siêu hình thì xem xét mọi
chân lý đều là kết quả của quá trình.
Quan điểm cho rằng con người không
thể đạt tới chân lý tuyệt đối là quan điểm
biện chứng, chứ không phải là quan điểm
bất khả tri. Bởi vì, người theo quan điểm
bất khả tri cho rằng trong thế giới có một
đường ranh giới tuyệt đối phân biệt cái con
người có thể nhận thức được với cái con
người không thể nhận thức được; trong khi
đó, người theo quan điểm biện chứng cho
rằng trong thế giới không có một đường
ranh giới tuyệt đối như vậy.
Khi thừa nhận mọi chân lý đều là chân lý
tương đối, chủ nghĩa duy vật biện chứng
khác với chủ nghĩa tương đối. Sự khác nhau
đó là ở chỗ, chủ nghĩa tương đối không
thừa nhận chân lý có tính khách quan, còn
chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận
chân lý có tính khách quan. Chủ nghĩa
tương đối cho rằng mọi chân lý đều là
chân lý tương đối với nghĩa nội dung của
chân lý phụ thuộc vào chủ thể nhận thức,
TrịnhThị Hằng
47
tức là cho rằng chân lý không có tính
khách quan. Còn chủ nghĩa duy vật biện
chứng cho rằng mọi chân lý đều là chân lý
tương đối với nghĩa nội dung của chân lý
không phụ thuộc vào chủ thể nhận thức,
tức là cho rằng chân lý có tính khách quan.
Khi thừa nhận mọi chân lý đều là chân lý
tương đối, tức là thừa nhận tính tương đối
của chân lý, chủ nghĩa duy vật biện chứng
cũng thừa nhận có chân lý vĩnh cửu. Ví dụ,
theo Ph.Ăngghen, “Napôlêông chết ngày...”
là một chân lý vĩnh cửu. Chân lý vĩnh cửu
mà Ph.Ăngghen nói ở đây, theo chúng tôi,
cần được hiểu không phải là chân lý tuyệt
đối, mà cần được hiểu là chân lý tương đối.
Chân lý vĩnh cửu là chân lý không thể bị
bác bỏ, chứ không phải là chân lý tuyệt đối.
Chân lý vĩnh cửu cũng là chân lý tương đối
vì vẫn có thể được làm cho đúng đắn hơn.
Tuy nhiên, các chân lý vĩnh cửu là các chân
lý đơn giản, dù có thể bổ sung và phát triển
nhưng người ta không cần phải bổ sung và
phát triển.
3. Yếu tố quy định tính tương đối của
chân lý
Vì sao mọi chân lý đều là chân lý tương
đối, nói cách khác, nguyên nhân nào quy
định tính tương đối của chân lý? Bởi vì,
mọi chân lý đều phụ thuộc vào các yếu tố
chủ quan sau đây:
Y ế u tố thứ nhất là giác quan và bộ não
của con người. Giác quan và bộ não là các
yếu tố sinh học của con người. Giác quan
và bộ não được định hình chủ yếu từ lúc
con người mới sinh (do yếu tố di truyền và
đột biến gen). Quá trình sống tiếp theo của
con người cũng góp phần hoàn thiện thêm
giác quan và bộ não. Giác quan là nơi tiếp
nhận tín hiệu tác động từ bên ngoài và
truyền tín hiệu tới bộ não. Bộ não là nơi xử
lý tín hiệu. Kết quả nhận thức của con
người phụ thuộc trước hết vào hoạt động
của giác quan và bộ não. Giác quan của một
số loài động vật bậc thấp không kém giác
quan của con người. Chẳng hạn, mũi của
con chó có thể phân biệt được nhiều vị hơn
con người, mắt của con chim đại bàng có
thể nhìn xa hơn con người. Tuy nhiên, bộ
não của con người thì hoàn thiện hơn bộ
não của mọi loài động vật bậc thấp. Con vật
không có nhận thức lý tính (tư duy, ý thức),
trước hết, vì nó không có bộ não như con
người. Ở những người khác nhau, cấu tạo
của giác quan và bộ não là khác nhau.
Những thần đồng và những nhà ngoại cảm
có giác quan và bộ não đặc biệt hơn người
bình thường. Bởi vì, thần đồng có một số kĩ
năng vượt xa so với mức chuNn của những
người cùng độ tuổi; có trình độ như một
người trưởng thành được đào tạo cNn thận
trong một lĩnh vực. Những nhà ngoại cảm
có khả năng cảm nhận bằng “giác quan thứ
sáu” (khả năng này không có ở những
người bình thường, như khả năng “nói
chuyện được với người chết”, “đọc được ý
nghĩ của người khác”, “tiên đoán được
tương lai”, “biết được quá khứ”). Những
khả năng kỳ lạ đó của con người có được
do các nguyên nhân vật chất, trước hết và
chủ yếu do cấu tạo đặc biệt của giác quan
và bộ não, chứ không phải do nguyên nhân
“thần thánh”. Giác quan và bộ não có tác
động lớn đến nhận thức chân lý; trong khi
đó, người nào cũng có giác quan và bộ não
không hoàn hảo tuyệt đối; từ đó kết quả
nhận thức bị hạn chế. Trong quá trình phát
triển vô tận, con người nhìn chung sẽ ngày
càng hoàn hảo hơn; theo đó giác quan và bộ
não cũng ngày càng hoàn thiện. Giác quan
và bộ não của con người ngày càng hoàn
thiện thì thông tin thu được càng chính xác,
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 11 - 2019
48
khả năng nhận thức ngày càng cao, từ đó
kết quả nhận thức ngày càng đúng đắn. Ai
cũng có hạn chế về giác quan và bộ não; do
đó, quan điểm của bất kỳ người nào về bất
kỳ vấn đề nào cũng đều không hoàn toàn
đúng đắn. Tuy nhiên, nhìn chung, con
người ngày càng phát triển về giác quan, bộ
não; quan điểm của con người về bất kỳ vấn
đề gì cũng đều ngày càng đúng đắn hơn.
Y ế u tố thứ hai là tri thức, tình cảm, ngôn
ngữ của con người. Khi tiến hành nhận
thức, con người phải dựa trên tri thức, tình
cảm, ngôn ngữ. Tri thức và tình cảm là
“phần hồn” của con người. Tri thức và tình
cảm của một người không có ngay từ khi
người đó sinh ra; cũng không phải là cái
bỗng nhiên từ trên trời rơi xuống; mà hình
thành trong quá trình con người được giáo
dục và rèn luyện. Từ những tín hiệu thu
nhận được từ giác quan, nhờ có tri thức và
tình cảm mà bộ não con người mới sáng tạo
ra các quan điểm. Nếu so sánh con người
với rô bốt, thì giác quan và bộ não của con
người giống như “phần cứng” của rô bốt, tri
thức và tình cảm của con người giống như
“phần mềm” của rô bốt, quan điểm của con
người giống như “thông tin sáng tạo” của rô
bốt. Tri thức và tình cảm của chủ thể nhận
thức có tác động quyết định đến sự hình
thành quan điểm của chủ thể nhận thức;
trong khi đó, người nào cũng có hạn chế về
tri thức và tâm lý; từ đó kết quả nhận thức
chân lý cũng bị hạn chế.
Tri thức của mỗi người gồm có tri thức
riêng và tri thức chung. Tri thức riêng của
một người là tri thức chỉ có ở người đó (do
người đó tự khám phá); tri thức chung của
một người là tri thức có ở nhiều người khác
(do người đó học tập). Tri thức của một
người chủ yếu là tri thức chung, nhưng
cũng chỉ là một phần nhỏ của tri thức chung
mà nhân loại đã xây dựng được. Trong quá
trình phát triển, tri thức của mỗi người và
của xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.
Người nào càng có nhiều tri thức thì người
đó càng thu nhận và xử lý thông tin có độ
chính xác hơn. Ví dụ, so với những người
bình thường, nhạc sĩ phân biệt được nhiều
loại âm thanh hơn; họa sĩ phân biệt được
nhiều loại màu sắc hơn; bác sĩ phân biệt
được nhiều loại bệnh hơn.
Giống như tri thức, tình cảm của mỗi
người gồm có tình cảm riêng và tình cảm
chung. Tình cảm riêng của một người là tình
cảm chỉ có ở người đó; tình cảm chung của
một người là tình cảm có ở nhiều người
khác. Đời sống tình cảm của một người chủ
yếu là tình cảm chung. Ví dụ, yêu nước Việt
Nam là tình cảm chung của mọi người Việt
Nam. Tình cảm của mỗi người ở mỗi thời
điểm khác nhau có sự khác nhau. Người nào
khi nhận thức với tình cảm say mê, tập
trung, bình tĩnh, không quá vui, không quá
buồn, không quá yêu, không quá ghét, không
quá giận, không quá thương, không quá sùng
bái, không quá coi thường, thì người đó càng
thu nhận và xử lý thông tin chính xác hơn.
Khi yêu hay kính trọng ai, người ta dễ tin
theo những điều người ấy tin, mà không cân
nhắc kỹ càng xem những điều đó có đáng tin
hay không. Đấy là biểu hiện hiện của tình
cảm sùng bái cá nhân, tình cảm này có ảnh
hưởng tiêu cực đến kết quả nhận thức, vì
mọi người, kể cả vĩ nhân, cũng đều có thể
mắc sai lầm. Khi một điều nào đó được đa
số người tin theo thì người ta cũng dễ tin
theo điều đó, mà không cân nhắc kỹ càng
xem những điều đó có đáng tin hay không.
Đấy là biểu hiện của tình cảm đám đông,
tình cảm này có ảnh hưởng tiêu cực đến kết
quả nhận thức, vì chân lý không phụ thuộc
vào số đông. Một loại tình cảm khác có ảnh
hưởng đến kết quả nhận thức là hám lợi,
những người có hám lợi khi thấy điều gì đó
TrịnhThị Hằng
49
có lợi thì không quan tâm đến việc xem xét
tính đúng sai của điều ấy; hám lợi có ảnh
hưởng tiêu cực đến kết quả nhận thức, vì
không phải cái gì có lợi cũng là chân lý. Từ
kinh nghiệm sống hàng ngày, chúng ta dễ
dàng thấy được tác động của tri thức và tình
cảm của chủ thể nhận thức đến kết quả nhận
thức. Thành ngữ Việt Nam có các câu: “Đàn
gảy tai trâu”, “cả giận mất khôn”, “yêu nhau
yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi
họ hàng”. Những câu này nói về tác động
của tri thức và tình cảm đối với kết quả nhận
thức của con người. Trong cổ tích Trung
Quốc có chuyện về mẹ Tăng Sâm do bị ảnh
hưởng bởi dư luận nên tưởng rằng con mình
giết người. Theo chuyện đó, ông Tăng Sâm,
học trò của Khổng Tử, là người hiền hậu, mẹ
của ông là người tin con. Đột nhiên, một
người hớt hải chạy đến báo mẹ ông rằng:
“Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ nói: “Chẳng
khi nào con ta lại giết người”. Rồi bà điềm
nhiên ngồi dệt cửi. Một lúc, lại có người đến
bảo: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ không
nói gì, cứ điềm nhiên dệt cửi. Một lúc nữa
lại có người đến bảo: “Tăng Sâm giết
người”. Bà mẹ sợ cuống, quăng thoi, trèo
qua tường chạy trốn. Thực ra, không phải
Tăng Sâm, mà một người trùng tên với ông
giết người. Chuyện này nói về ảnh hưởng
tiêu cực của tình cảm đám đông đến nhận
thức chân lý.
Ngôn ngữ không phải là tri thức, mà là
phương tiện truyền tải tri thức. Mỗi người
đều có ngôn ngữ riêng và ngôn ngữ chung.
Mật mã mà ý nghĩa của nó chỉ được biết bởi
một người là ngôn ngữ riêng của người đó.
Ngôn ngữ của mỗi người chủ yếu là ngôn
ngữ chung của xã hội; hơn nữa cũng chỉ là
một phần nhỏ trong ngôn ngữ chung của xã
hội. Ngôn ngữ là một yếu tố của quá trình
nhận thức. Không có ngôn ngữ thì con
người không thể nhận thức. Những người
càng có vốn ngôn ngữ phong phú, càng
nắm vững quy tắc ngữ pháp của ngôn ngữ,
càng biết nhiều ngoại ngữ, thì càng có khả
năng tiếp nhận và xử lý thông tin tốt; từ đó
kết quả nhận thức càng tốt hơn. Tuy nhiên,
ngôn ngữ của xã hội ở thời điểm nào cũng
có hạn chế và không ngừng được phát triển.
Sự hạn chế đó là một nguyên nhân làm cho
chân lý có tính tương đối.
Y ế u tố thứ ba là phương tiện nhận thức
và thực tiễn của xã hội. Phương tiện nhận
thức (như bút, giấy, thước, kính, máy tính,
tàu vũ trụ) là sản phNm được con người
sáng tạo ra và được con người dùng để
nhận thức. Mỗi vấn đề nhận thức cần có
một phương tiện nhận thức phù hợp. Ví dụ,
để nghiên cứu các vấn đề của triết học và
toán học thì cần phải có giấy, bút, mực,
thước; để nghiên cứu các vấn đề của vật lý
học vi mô thì cần phải có kính hiển vi, máy
tính, máy gia tốc hạt; để nghiên cứu các vấn
đề của thiên văn học thì cần phải có kính
viễn vọng, tàu vũ trụ. Nhiều vấn đề nhận
thức đòi hỏi phương tiện nhận thức lớn. Ví
dụ, để tiến hành nghiên cứu vũ trụ,trí tuệ
nhân tạo, hàng năm các chính phủ và các
doanh nghiệp tư nhân phải đầu tư hàng
chục tỷ đô la Mỹ (USD). Không có sự đầu
tư tốn kém thì sẽ không có kết quả nghiên
cứu khoa học có giá trị. Phương tiện nhận
thức có tác động lớn đến kết quả nhận thức.
Nếu con người càng có nhiều tri thức thì
con người càng tạo ra được phương tiện
nhận thức tốt. Nếu con người càng có
phương tiện nhận thức tốt thì thông tin thu
được từ đối tượng nhận thức càng nhiều và
chính xác, từ đó kết quả nhận thức càng
chính xác. Tuy nhiên, không có phương tiện
nhận thức nào là tuyệt đối hoàn hảo;
phương tiện nhận thức nào cũng có hạn chế.
Đó là một nguyên nhân dẫn đến tính tương
đối của chân lý.
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 11 - 2019
50
Thực tiễn là hoạt động vật chất của con
người và có ảnh hưởng quyết định đến nhận
thức. Nếu không có nhận thức thì không có
thực tiễn vì kết quả nhận thức chỉ đạo thực
tiễn. Ngược lại, không có thực tiễn thì sẽ
không có nhận thức, bởi vì nhờ có thực tiễn
nên con người mới có tài liệu cho nhận
thức, phương tiện nhận thức, hoàn thiện
hơn các giác quan. Khi nhận thức, con
người phải so sánh, phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa các tài liệu nhận thức cảm
tính thu được từ sự tác động của thế giới
vào các giác quan của mình. Nếu chỉ trông
chờ vào sự tác động thụ động của các sự vật
cũng giống như con vật, thì con người sẽ
không có được các tài liệu cảm tính cần
thiết. Nhờ hoạt động thực tiễn nên con
người mới làm cho sự vật phải bộc lộ rõ
hơn những thuộc tính của chúng và mới
nhận được các thông tin cần thiết cho nhận
thức. Nhờ hoạt động thực tiễn nên con
người mới có được các phương tiện nhận
thức, vì phương tiện nhận thức không có
sẵn trong tự nhiên mà được con người sáng
tạo ra. Cũng nhờ hoạt động thực tiễn nên
con người mới hoàn thiện hơn các giác
quan của mình. Ví dụ, trong giai đoạn hình
thành con người, chính nhờ thực tiễn lao
động nên loài vượn mới đi thẳng đứng được
bằng hai chân, mới có tầm nhìn bao quát
hơn, và mới có bộ óc phát triển hơn. Con
người càng hoạt động thực tiễn nhiều ở lĩnh
vực nào thì giác quan thích hợp với lĩnh
vực ấy càng phát triển hơn. Thực tiễn là
điều kiện không thể thiếu để con người
nhận thức. Tuy nhiên, thực tiễn nào cũng có
hạn chế. Trong quá trình phát triển của xã
hội, thực tiễn sẽ không ngừng hoàn thiện
hơn, ít hạn chế hơn; từ đó kết quả nhận thức
càng chính xác hơn. Sự hạn chế của thực
tiễn là một nguyên nhân dẫn đến tính tương
đối của chân lý.
Chân lý phụ thuộc vào các yếu tố nói
trên (giác quan, bộ não, tri thức, tình cảm,
ngôn ngữ của con người, phương tiện nhận
thức và thực tiễn của xã hội). Trong khi đó,
các yếu tố chủ quan này luôn luôn không
hoàn hảo (nghĩa là luôn luôn có những hạn
chế). Chính sự không hoàn hảo hay sự hạn
chế của các yếu tố đó là nguyên nhân quy
định tính tương đối của chân lý.
4. Kết luận
Chân lý là nhận thức đúng đắn của con
người về một vấn đề bất kỳ nào đó. Chân lý
nào cũng đều tương đối vì sẽ bị thay thế
bằng chân lý khác đúng đắn hơn. Chân lý
nào cũng có tính tương đối. Tính tương đối
của chân lý bị quy định bởi sự hạn chế của
chủ thể nhận thức, cụ thể bởi hạn chế của
phương tiện nhận thức và thực tiễn của xã
hội, vào giác quan, bộ não, tri thức, tình
cảm, ngôn ngữ của con người. Chân lý là
mục đích của hoạt động nhận thức của con
người. Chân lý cần được xem xét theo quan
điểm biện chứng. Nếu không xem xét chân
lý theo quan điểm biện chứng thì chúng ta
sẽ thỏa mãn với kết quả nhận thức hiện có
mà không tiếp tục bổ sung và phát triển kết
quả nhận thức đó.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình
tri ế t học (Dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
Tri ế t học), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, t.20, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[3] V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t.18, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva.
[4] V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva.
TrịnhThị Hằng
51
.
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 11 - 2019
52

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_quan_diem_bien_chung_ve_chan_ly.pdf