Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại

Trên cơ sở đặc điểm điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và một nền văn hóa đặc sắc, tư tưởng triết học

tôn giáo Ấn Độ cổ đại đã hình thành và phát triển. Người ta đã phân chia quá trình đó của triết học tôn

giáo Ấn Độ thành hai thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ Veda - Sử thi (từ năm 1500 đến năm 600 tr.

CN); thời kỳ thứ hai là thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ Phật giáo, Bàlamôn giáo (từ năm 600 tr. CN đến thế

kỷ III CN). Đó là một nền triết học lâu đời, phong phú, đa dạng; đề cập đến hầu hết các vấn đề của triết

học, từ thế giới quan đến nhân sinh quan; từ bản thể luận, nhận thức luận đến đạo đức, luân lý xã hội.

Trong đó một trong những vấn đề nổi bật đó là triết lý đạo đức nhân sinh và vấn đề giải thoát con người.

Vì thế triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 1

Trang 1

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 2

Trang 2

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 3

Trang 3

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 4

Trang 4

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 5

Trang 5

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 6

Trang 6

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 7

Trang 7

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 8

Trang 8

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 9

Trang 9

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 4560
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại
 vốn có, 7. Hư vô. Ba phạm trù 
đầu tồn tại một cách hiện thực. Ba phạm 
96 
trù tiếp theo là sản phẩm của tư duy lô 
gich. Thực thể là phạm trù cơ bản phản ánh 
bản chất của các vật thể. Thực thể có thuộc 
tính cố định là chất lượng, nó tồn tại tự nó 
và là nguyên nhân sinh ra các vật thể. Thế 
giới bao gồm những thực thể có chất lượng 
và vận động. Thực thể có chín dạng: đất, 
nước, lửa, gió, không khí hay ê te, thời 
gian, không gian, linh hồn và trí tuệ. Trong 
đó, có năm loại thực thể là yếu tố vật lý, đó 
là: đất, nước, lửa, khí, ê te, có đặc tính 
riêng biệt mà cảm giác có thể lĩnh hội 
được. Thực thể ê te có thuộc tính riêng biệt 
là âm thanh. Ê te tràn đầy không gian giữa 
các nguyên tử. Nguyên tử là phần tử nhỏ 
bé nhất cấu tạo nên các thực thể vật lý. 
Chúng được phân chia theo bốn loại, tùy 
theo nguồn gốc và gây nên bốn loại cảm 
giác: xúc giác, vị giác, thị giác và khứu 
giác. Nguyên nhân tác động, kết hợp các 
nguyên tử để tạo thành vạn vật, biến vũ trụ 
từ hỗn độn thành trật tự, đó là do một năng 
lực vô hình, còn gọi là “Linh hồn thế giới”. 
Có hai loại linh hồn, “Linh hồn cá biệt” và 
“Linh hồn tối cao”. “Linh hồn tối cao” chỉ 
có một, là toàn năng, là nguyên nhân sáng 
tạo ra vũ trụ, chỉ huy thế giới các nguyên tử 
và linh hồn cá biệt. Song song với thế giới 
các nguyên tử có một thế giới linh hồn cá 
biệt. Số phận, phẩm chất của các linh hồn 
cá biệt như thế nào thì “Linh hồn tối cao” 
cũng tạo ra hay hủy diệt vạn vật trong vũ 
trụ cho phù hợp với phẩm chất và số phận 
của linh hồn cá biệt như thế ấy. Phái 
Vaisesika giải thích rằng, linh hồn cá biệt 
trú ngụ trong con người thường bị những 
ham muốn dục vọng che lấp, nên làm cho 
linh hồn cá biệt bị vây hãm bởi thế giới vật 
dục, không giữ được bản chất thanh tịnh, 
bản nhiên vốn có của mình. Đó chính là 
nghiệp. Vì vậy, để giải thoát cho linh hồn, 
con người ta phải tu luyện đạo đức và trí 
tuệ, tự chế dục theo phương pháp yoga. 
Trong lý luận nhận thức, Vaisesika đưa ra 
bốn loại nhận thức có thể đem lại cho ta 
chân lý, đó là: tri giác, kết luận, ký ức và 
trực giác. 
Trường phái khác trong hệ thống chính 
thống là phái Yoga. Yoga nguyên nghĩa 
tiếng Phạn có nghĩa là “cái ách”, “sự cột 
vào”, “sự liên kết” hay “hợp nhất tâm thể về 
một mối”. Phái này cho rằng để cho tinh thần 
thoát khỏi sự chi phối của thể xác và thế giới 
vật dục, đạt tới sự thanh khiết trong tinh thần, 
giác ngộ và giải thoát, người ta phải tu luyện 
kiên trì theo tám phương pháp, gọi là “Bát 
bảo tu pháp”, gồm: 1. Chế giới (yama), 2. 
Nội chế (niyamà), 3. Tọa pháp (asàna), 4. 
Điều tức pháp (pranyàma), 5. Chế cảm pháp 
(pràtyahara), 6. Tổng trì pháp (dhàrana), 7. 
Thiền định (dhỳana), 8. Bát nhã (samadhi)(4). 
Một trong những trường phái có quan 
điểm riêng về con đường và cách thức giải 
thoát trong hệ thống chính thống là phái 
Mimànsà. Trường phái này cho rằng, đời 
sống chân chính đưa tới cái gọi là giải thoát 
hoàn toàn linh hồn khỏi sự ràng buộc của 
thể xác và thế giới nhục dục là không thể 
đạt được chỉ bằng trí tuệ và mọi sự cố gắng 
của ý thức, mà phải bằng cách gìn giữ và 
thực hiện đúng đắn, nghiêm túc mọi nghi 
thức của Veda, đồng thời phải triệt để chấp 
hành mọi nghĩa vụ, bổn phận, mọi luật lệ 
và giới luật về mặt xã hội và tôn giáo, tức 
“pháp” dharma, đã quy định mỗi đẳng cấp 
trong xã hội. 
Trường phái duy nhất có lập trường 
nhất nguyên luận duy tâm triệt để trong hệ 
thống chính thống là phái Vedànta. Tư 
tưởng chủ yếu của kinh Upanishad mà phái 
Vedànta lấy làm cơ sở cho học thuyết của 
mình là vấn đề trả lời cho câu hỏi, cái gì là 
bản nguyên của thế giới, là thực tại cao 
nhất mà khi nhận thức được nó sẽ biết 
97 
được mọi cái còn lại. Phái Vedànta cho 
rằng, cái là bản chất sâu xa, là nền tảng của 
mọi cái tồn tại, từ đó nảy sinh ra tất cả và 
cũng từ đó tất cả mọi cái nhập về sau khi 
mất đi, đó là “Tinh thần vũ trụ tối cao” 
Brahmàn. Brahmàn là thực tại tuyệt đối, 
bất diệt, là linh hồn của vũ trụ, là nguồn 
sống của vũ trụ. “Linh hồn cá biệt” chỉ là 
sự biểu hiện khác nhau của “Linh hồn vũ 
trụ tối cao” nơi thể xác của chúng sinh. Để 
giải thoát linh hồn con người khỏi sự ràng 
buộc của thể xác và thế giới vật dục, con 
người phải dốc lòng tu luyện, suy tư chiêm 
nghiệm nội tâm, thực nghiệm tâm linh, 
nhận ra chân bản tính của mình, đưa linh 
hồn cá nhân trở về đồng nhất với “Linh 
hồn vũ trụ tuyệt đối tối cao”, hợp nhất với 
Đấng tối cao, bằng sự tu luyện trí tuệ 
prajnà - yoga, đạo đức karmà - yoga và 
niềm tin vào Đấng tối cao hay chủ nghĩa 
tín ái bhakti. Đó chính là giải thoát. 
Đối lập với sáu trường phái chính 
thống là hệ thống triết học không chính 
thống (The Heterodox Systems), thoát ly tư 
tưởng và văn hóa cổ truyền, không thừa 
nhận uy thế của Veda, Upanishad, phê 
phán giáo lý của đạo Bàlamôn, phản đối 
chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội, gọi là 
nas’tika (nghĩa là “cái đó không tồn tại”), 
gồm: Lokàyatà hay Càrvàka, Jaina, Phật 
giáo và các môn phái khác trong “Lục sư 
ngoại đạo”(5). 
Trước hết, đó là phái Lokàyatà, phái 
này cho rằng tất cả sự vật, hiện tượng trong 
thế giới đều do bốn yếu tố vật chất đầu tiên 
gồm đất, nước, lửa, khí tự tụ tự tán trong 
không gian mà thành. Các sự vật, hiện 
tượng sở dĩ đa dạng, phong phú khác nhau 
là do số lượng và thể thức kết hợp các 
nguyên tố đó khác nhau. Linh hồn cũng do 
các yếu tố đó kết hợp với nhau theo một 
cách thức đặc biệt, sau khi sinh vật chết đi 
thì sự kết hợp đó tan rã thành các nguyên 
tố và do đó linh hồn cũng mất đi. Bốn 
nguyên tố đó lại được cấu thành bởi những 
phần tử nhỏ bé, không phân chia, bất diệt 
gọi là các nguyên tử. Về nhận thức luận và 
lô gích học, phái Lokàyatà chỉ thừa nhận 
cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận 
thức. Theo họ, suy lý, kết luận hay những 
minh chứng của Veda đều là những 
phương pháp nhận thức sai lầm. Chỉ có cái 
gì cảm giác biết được thì mới tồn tại. Do 
đó, Lokàyatà đã phủ nhận tính hiện thực 
của Thượng đế, Phạm thiên. Về đạo đức, 
phái Lokàyatà phê phán học thuyết tuyên 
truyền cho sự chấm dứt khổ đau bằng cách 
kiềm chế mọi dục vọng và hy vọng cuộc 
sống hạnh phúc nơi thế giới bên kia nào 
đó. Họ chủ trương hãy để cho mọi người 
sống, hưởng thụ tất cả những gì trên cõi 
đời này, với cả những khổ đau và niềm 
hạnh phúc. 
Tiếp theo, đó là môn phái Jaina. Môn 
phái này cho rằng toàn bộ thế giới đa dạng 
đều bắt nguồn từ hai thực thể đầu tiên, đó 
là giva (linh hồn, tinh thần) và adgiva 
(không phải là linh hồn). Vật chất là một 
trong những biến dạng của adgiva, gồm các 
yếu tố vật lý như đất, nước, lửa, khí, chúng 
có những đặc tính như sờ mó được, có âm 
thanh, mùi vị và màu sắc. Các yếu tố vật 
chất lại được cấu thành bởi các nguyên tử 
anu. Anu có đặc tính cực kỳ nhỏ bé, không 
thể phân chia, tồn tại vĩnh viễn. Các thực 
thể vật chất hình thành đều do các nguyên 
tử tự tụ tán với nhau theo số lượng và cách 
thức khác nhau. Ngoài ra, còn có một thứ 
vật chất tinh tế, không thể nhận biết bằng 
cảm giác, nó quyết định mối liên hệ giữa 
linh hồn và thể xác. Jaina không thừa nhận 
có “Linh hồn tối cao”. Trong thế giới có số 
lượng lớn và cố định những linh hồn, được 
thể hiện trong các thực thể sống hoặc 
98 
không được thể hiện ra. Linh hồn cũng như 
vật chất không do ai tạo ra, tồn tại ngay từ 
đầu và tồn tại mãi mãi. Dưới dạng tiềm 
năng và bản chất của nó, linh hồn là một 
lực lượng toàn năng, thâm nhập được tất 
cả, hiểu biết tất cả. Nhưng khả năng ấy của 
nó lại bị thân xác cụ thể với những ham 
muốn, dục vọng, ý chí mà linh hồn trú ngụ 
trong đó hạn chế. Muốn giải phóng linh 
hồn ra khỏi sự ràng buộc bởi những ham 
muốn của thể xác và sự lôi kéo của thế giới 
vật dục, người ta phải tu luyện trí tuệ và 
đạo đức theo luật ahimsà (bất tổn sinh), 
sống khổ hạnh ép xác, giữ đạo đức và linh 
hồn trong sạch, khi đó con người có thể đạt 
tới giải thoát. 
Nổi bật trong hệ thống không chính 
thống đó là Phật giáo. Phủ nhận tư tưởng 
về sự tồn tại của Đấng sáng tạo Brahmà 
trong kinh Veda, Upanishad và đạo 
Bàlamôn, Phật giáo cho rằng thế giới là 
một dòng biến chuyển không ngừng, theo 
chu trình sinh, thành, hoại, diệt, gọi là một 
kiếp (kalpa) hay một satna (ksana), không 
do ai tạo ra và cũng không có cái gì là tồn 
tại vĩnh viễn cả. Nguyên nhân của sự biến 
đổi ấy của vạn pháp, đó là do sự chi phối 
và tác động của luật nhân quả. Do đó mà 
thế giới, vạn vật cứ sinh hóa không ngừng. 
Triết học Phật giáo gọi đó là “chư hành vô 
thường”. Theo triết lý Phật giáo, con người 
cũng do nhân duyên tạo ra bởi hai thành 
phần: phần sinh lý và phần tâm lý, hay 
phần hình chất và phần tinh thần. Trong 
đó, phần sinh lý tức thể xác gọi là “sắc” 
(rupa), được tạo bởi bốn yếu tố (tứ đại) là: 
thủy, hỏa, địa, phong; sắc tạo nên thân thể, 
các giác quan và đối tượng của chúng. 
Phần tâm lý hay tinh thần chỉ có tên gọi mà 
không có hình chất nên gọi là “danh”. 
Danh cũng do bốn yếu tố hợp thành đó là: 
thụ, tưởng, hành, thức. Quá trình hợp, tan 
của ngũ uẩn do nhân duyên tác động tạo ra 
sự sinh thành, diệt vong của mỗi chúng 
sinh. Vì thế sự tồn tại của vạn pháp, thực 
chất cũng chỉ là giả hợp, không có cái gì là 
thực thể, không có cái gì tồn tại tuyệt đối 
cả, cho nên gọi là “vạn pháp vô ngã”. Vì 
không nhận thức được rằng cái tôi có mà 
không; nên người ta lầm tưởng rằng cái gì 
cũng thường định, cái tôi, cái ta tồn tại mãi 
và cái gì cũng là của ta, nên con người cứ 
khát ái, tham dục, gây nên nghiệp báo 
(karma), mắc vào bể khổ luân hồi 
(samsàra). Từ đó Phật giáo đã chỉ ra nguồn 
gốc nỗi khổ của con người và con đường 
diệt khổ để được giải thoát, qua học thuyết 
“Tứ diệu đế” (Catvàri àrya satyàni), “Thập 
nhị nhân duyên” (Dvàdasanidàna) và “Bát 
chánh đạo” (Astàngika màrga). “Tứ diệu 
đế” là bốn chân lý cao thượng, chắc chắn, 
gồm: Khổ đế (Dukkha satya), là chân lý về 
nỗi khổ của chúng sinh, có tám điều khổ, 
đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, 
ái biệt ly khổ, sở cầu bất đắc khổ, oán tăng 
hội khổ, ngũ uẩn chấp thủ là khổ. Tập đế 
(Sammudaya satya), là chân lý giải thích 
nguồn gốc nỗi khổ của chúng sinh. Phật giáo 
đã đưa ra thuyết “Thập nhị nhân duyên” để 
chỉ ra nguồn gốc của những nỗi khổ ấy. 
Mười hai nhân duyên đó là: 1. Vô minh 
(avidyà), 2. Hành (samskàra), 3. Thức 
(vijnàna), 4. Danh sắc (nàma rùpa), 5. Lục 
căn (sadàyatana), 6. Xúc (sparsa), 7. Thụ 
(vedanà), 8. i (trsnà), 9. Thủ (upàdàna), 10. 
Hữu (bhàva), 11. Sinh (jàti) và 12. Lão tử 
( arà-marana). Như vậy, theo triết lý Phật 
giáo, nguyên nhân trực tiếp của nỗi khổ 
chính là do ái dục, là lòng tham, sân, si của 
con người. Còn nguyên nhân sâu xa, nguyên 
nhân nhận thức chính là do sự “vô minh” của 
con người. Diệt đế (Dukkha nirodha satya), 
là chân lý về sự diệt khổ, khẳng định rằng, 
chúng sinh có thể diệt được đau khổ, chấm 
99 
dứt được nghiệp báo, luân hồi bằng những 
nỗ lực trong tu luyện để diệt dục vọng, dứt 
bỏ vô minh, đạt đến trạng thái Niết bàn 
(Nirvana). Đạo đế (Màrga satya), là chân lý 
về con đường, hay phương pháp diệt khổ. 
Đó là sự tu luyện trí tuệ, đạo đức, thực 
nghiệm tâm linh, trực giác, nhằm xoá “vô 
minh”, diệt dục vọng, đạt tới cái giác ngộ, 
giải thoát. Có tám con đường tu luyện chân 
chính để giải thoát, gọi là “Bát chánh đạo”, 
gồm: Chính kiến (samyak drsti), Chính tư 
duy (samyak samkalpa), Chính ngữ 
(samyak vàcà), Chính nghiệp (samyak 
karmanta), Chính mệnh (samyak àjiva), 
Chính tinh tiến (samyak vyàyàma), Chính 
niệm (samyak smrti), Chính định (samyak 
samàdhi). Tám con đường ấy, quy về ba 
môn học (Tam học): giới (s’ìla), định 
(dhyàna), tuệ (prajnà). 
Phật giáo đã trở thành một trong 
những ngọn cờ tự do tư tưởng và bình đẳng 
xã hội. Trong lĩnh vực tư tưởng, đạo Phật 
đã phủ nhận quan điểm Phạm thiên là lực 
lượng tối cao sáng tạo và chi phối thế giới, 
khẳng định vạn pháp do nhân duyên tác 
động mà tồn tại, biến đổi vô thường, vô 
ngã. Trong lĩnh vực xã hội, đạo Phật là 
tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc 
nghiệt, đòi sự bình đẳng xã hội. Tuy nhiên 
do chưa giải thích được đúng nguyên nhân 
nỗi khổ của con người, do đó Phật giáo 
chưa đưa ra được phương pháp hiện thực 
để xóa bỏ đau khổ, bất công của con người 
thời bấy giờ. 
3. Kết luận 
Tìm hiểu quá trình hình thành và phát 
triển của triết học tôn giáo Ấn Độ cổ đại 
chứng tỏ, đó là một nền triết học có truyền 
thống lịch sử lâu đời, phản ánh sâu sắc tính 
chất sinh hoạt của xã hội Ấn Độ cổ đại, có 
nội dung và hình thức phong phú, đa dạng. 
Nó đã đề cập đến hầu hết những vấn đề cơ 
bản từ thế giới quan đến nhận thức luận và 
nhân sinh quan, từ vấn đề luân lý đạo đức 
đến các vấn đề xã hội, tôn giáo, với các 
trào lưu triết học tôn giáo thể hiện các 
khuynh hướng tính chất khác nhau; có 
trường phái đa nguyên, nhưng cũng có 
trường phái nhất nguyên luận; có trường 
phái duy tâm nhưng cũng có những trường 
phái duy vật. Dù dưới những hình thức, 
khuynh hướng muôn màu, muôn vẻ, nhưng 
hầu như các trường phái triết học tôn giáo 
Ấn Độ cổ đại đều tập trung vào lý giải cái 
bản chất sâu kín, uyên nguyên của vũ trụ, 
vạn vật; quan tâm tìm hiểu bản chất giá trị 
đời sống đạo đức, tâm linh con người, tìm 
căn nguyên nỗi khổ và vạch ra cách thức, 
con đường để giải thoát con người ta khỏi 
nỗi khổ của cuộc đời. Vì thế có thể nói, 
triết học tôn giáo Ấn Độ thể hiện tính nhân 
văn sâu sắc. 
Chú thích 
1) The Upanishads, Volume 2, Svetàsvatara 
Upanishad, Chapter 1, Bonanza Books, New 
York, 1951, p. 71. 
2) Doãn Chính: Tư tưởng giải thoát trong triết 
học Ấn Độ cổ đại, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2008, tr. 26. 
3) S. Radhakrisnan and Ch.A.Moore: A 
Sourcebook in India Phylosophy, Princeton 
University Press, USA, 1973, p. 349. 
4) Will Durant: Our Oriental Heritage, Simon 
and Schuster, New York, 1954, p. 543-544. 
5) S. Radhakrishnan and Ch.A. Moore: A 
Sourcebook in India Phylosophy, Princeton 
University Press, USA, 1973, p. 224. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
A. Tài liệu tham khảo tiếng Việt 
1. Doãn Chính (2008), Tư tưởng giải thoát trong 
Triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
100 
2. Đại tạng kinh Việt Nam (1993), Tương ưng bộ 
kinh, 5 tập, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam. 
3. Chân Nguyên, Nguyễn Tường Bách, Thích 
Nhuận Châu (2010), Từ điển Phật học, Nxb 
Thời đại, Hà Nội. 
B. Tài liệu tham khảo tiếng Anh 
4. Jawaharlal Nehru (1954), The Discovery of 
India, Oxford University Press, India. 
5. S.Radhakrishnan (1999), Indian Philosophy, 
Vol. 1, Oxford University Press, New Dehli. 
6. S. Radhakrishnan and Ch. A. Moore (1973), 
A Sourcebook in India Philosophy, Princeton 
University Press, USA. 
7. The Upanishads, Volume 2, Bonanza Books, 
New York, 1951. 
8. Will Durant (1954), Our Oriental Heritage, 
Simon and Schuster, New York. 
Ngày nhận bài: 14/12/2015 Biên tập xong: 15/02/2016 Duyệt đăng: 20/02/2016 

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_qua_trinh_hinh_thanh_va_phat_trien_cua_triet_hoc_to.pdf